Ngày 112

Chào Chúa!

Khôn ngoan Thi Thiên 49:1-20
Tân ước Lu-ca 20:27-21:4
Cựu Ước Phục truyền 33:1-34:42

Giới thiệu

The Vicar of Dibley, một bộ phim sitcom truyền hình của Vương quốc Anh khắc họa một nữ cha sứ do Dawn French thủ vai, dựa trên cuộc đời của một trong những nữ cha sứ đầu tiên - Joy Carroll Wallis. Vài năm trước, Pippa và tôi đã gặp Joy. Bà ấy kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện khi bà ấy còn là một linh mục Anh giáo ở London.

Một trong những thành viên của hội thánh là một bà lão 87 tuổi rất tin kính tên là Flory Shore, bà đã trải qua một ca phẫu thuật quan trọng. Flory đã được thông báo rằng khả năng hồi phục của bà ấy rất mong manh.

Rất may, bà đã sống sót sau ca phẫu thuật. Khi mở mắt ra, một trong những điều đầu tiên bà ấy nhìn thấy là hình ảnh mờ ảo của bác sĩ mặc áo khoác trắng.

Bà ấy mỉm cười và nói, 'Xin chào Chúa! Tôi là Flory Shore.’

Joy nhận xét rằng điều này chứng tỏ hai điều. Đầu tiên, nó thể hiện sự khiêm nhường của Flory. Bà không mong đợi Chúa biết bà là ai. Thứ hai, nó cho thấy bà ấy hoàn toàn chắc chắn về sự sống lại và nơi bà ấy sẽ đến.

Sự chắc chắn của bà ấy về sự phục sinh dựa trên nền tảng của Cơ đốc giáo: sự phục sinh của Chúa Giê-su Christ vào ngày lễ Phục sinh đầu tiên. Quyền năng đã khiến Chúa Giê-su sống lại từ cõi chết hiện đang sống trong bạn qua Đức Thánh Linh (xin xem Ê-phê-sô 1:18–23). Một ngày nào đó, bạn cũng sẽ được cất lên và có thể nói: “Xin chào Chúa!”

Khôn ngoan

Thi Thiên 49:1-20

Thi Thiên của con cháu Cô-ra, sáng tác cho nhạc trưởng

1 Hỡi muôn dân, hãy nghe điều nầy;
  Hỡi mọi người trên thế gian, hãy lắng tai nghe.
2 Bất luận người hạ lưu hay thượng lưu,
  Người giàu có cũng như người nghèo hèn.
3 Miệng tôi sẽ nói lời khôn ngoan,
  Sự suy ngẫm của lòng tôi là sự thông sáng.
4 Tôi sẽ lắng tai nghe câu châm ngôn;
  Tôi sẽ lấy đàn hạc mà giải câu đố.

5 Vì sao tôi phải sợ hãi trong ngày tai họa
  Khi sự gian ác của những kẻ muốn tiếm vị tôi vây phủ tôi?
6 Chúng tin cậy nơi tài sản mình,
  Khoe khoang của cải dư dật của mình.
7 Không ai chuộc được anh em mình
  Hoặc trả giá chuộc người ấy nơi Đức Chúa Trời.
8 Để cho người ấy được sống mãi mãi
  Không hề thấy sự hư nát.
9 Vì giá chuộc mạng sống quá đắt,
  Người ấy không thể trả nổi.
10 Vì người ta thấy người khôn ngoan chết,
  Kẻ điên cuồng và người ngu dại cũng chết như nhau
  Để lại tài sản mình cho kẻ khác.
11 Chúng nghĩ trong lòng rằng nhà mình sẽ còn mãi mãi
  Và chỗ mình ở vẫn tồn tại từ đời nầy qua đời kia.

  Chúng cũng lấy chính tên mình đặt cho đất ruộng mình.
12 Nhưng loài người dù giàu sang cũng chẳng còn mãi;
  Nó giống như thú vật phải hư mất.

13 Đường lối chúng là sự ngu dại của chúng;
  Và những kẻ theo chúng thích lý luận của chúng.
14 Chúng bị định xuống âm phủ như bầy chiên;
  Thần chết sẽ chăn giữ chúng:
  Buổi sáng, người ngay thẳng sẽ giày đạp chúng.
  Hình hài của chúng bị tiêu hủy.
  Âm phủ sẽ là nơi ở của chúng.
15 Nhưng Đức Chúa Trời sẽ cứu chuộc linh hồn tôi khỏi quyền âm phủ
  Vì Ngài sẽ tiếp rước tôi.
16 Chớ sợ khi một người trở nên giàu có
  Khi vinh quang nhà người ấy tăng lên.
17 Vì khi chết người ấy chẳng đem gì theo được,
  Vinh quang cũng không theo người xuống mồ mả đâu.
18 Dù lúc còn sống, người ấy kể mình là được phước,
  Và được người ta ca ngợi khi người thịnh vượng.
19 Người ấy sẽ đến cùng dòng dõi tổ phụ mình:
  Sẽ chẳng còn thấy ánh sáng nữa.

20 Người nào hưởng sự giàu sang mà không hiểu biết gì
  Giống như thú vật phải hư mất.

Bình luận

Cuộc sống bên kia nấm mồ

Có một sự tương phản rõ rệt giữa cuộc sống không có Chúa và cuộc sống có Chúa.

  1. Đời sống không có Chúa

Những người sống không có Chúa có xu hướng cuối cùng tin cậy vào của cải (c.6a) hoặc bản thân (c.13a). Sự tin cậy này có đặc điểm là tìm kiếm địa vị trong xã hội. Người giàu có thể ‘khoe khoang của cải dư dật của mình’ (c.6b) và dùng tiền để gây ấn tượng với người khác bằng tài sản của họ (c.16). Họ thậm chí có thể đặt tên cho các vùng đất theo tên mình (c.11a).

Họ thích sự khen ngợi của người khác (c.18b) và họ cho rằng mình “được phước” (c.18a). Họ có thể cố gắng dùng của cải để “chuộc” cái chết của chính mình (c.7). Tuy nhiên, họ không bao giờ có đủ tiền (c.8). Cuối cùng, tất cả đều vô ích khi của cải được để lại cho người khác (c.10b). 'Chớ sợ khi một người trở nên giàu có, Khi vinh quang nhà người ấy tăng lên. Vì khi chết người ấy chẳng đem gì theo được’ (c.16–17a, VIE2010). Tất cả những điều này có giá trị gì nếu hình hài chúng ta ‘bị tiêu hủy’ (c.14).

  1. Đời sống với Chúa

Ngược lại, nếu bạn sống cuộc đời với Chúa thì không cần phải tìm kiếm địa vị. Điều này là do địa vị của bạn không được quyết định bởi sự thành công của bạn trong việc tích lũy của cải, mà bởi việc bạn biết bạn thuộc về ai và bạn quý giá như thế nào đối với Chúa.

Giá chuộc của bạn đã được trả (c.7b) và bạn đã được chuộc – tương lai của bạn được đảm bảo: Đức Chúa Trời sẽ cứu chuộc linh hồn tôi khỏi quyền âm phủ, Vì Ngài sẽ tiếp rước tôi’ (c.15, VIE2010).

Một đời sống với Đức Chúa Trời có nghĩa là bạn sẽ '...được sống mãi mãi, Không hề thấy sự hư nát’ (c.9). Tác giả Thi thiên nói: ‘Vì sao tôi phải sợ hãi?’ (c.5). Sợ hãi là một cảm xúc tự nhiên của con người. Nhưng, với Chúa, bạn có thể tự tin đối mặt với nỗi sợ hãi của mình vì bạn có thể hoàn toàn tin tưởng vào Chúa cho cuộc sống này và cuộc sống mai sau.

Đây là một trong số ít gợi ý trong Cựu Ước về cuộc sống sau khi chết. Người viết tin chắc rằng ‘Nhưng Đức Chúa Trời sẽ cứu chuộc linh hồn tôi khỏi quyền âm phủ, Vì Ngài sẽ tiếp rước tôi.’ (c.15). Cuộc sống với Thiên Chúa không kết thúc với cái chết nhưng tiếp tục cho đến cõi vĩnh hằng. Trước giả Thi thiên tin tưởng vào điều này, mặc dù ông không biết làm thế nào điều đó có thể xảy ra. Câu trả lời được bày tỏ qua sự sống lại của Chúa Giê-xu.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, con cảm ơn Ngài vì quyền năng phục sinh của Chúa hiện đang sống trong con. Cảm ơn Ngài vì Chúa sẽ giật con khỏi nanh vuốt của cái chết và đưa con đến với Ngài.

Tân ước

Lu-ca 20:27-21:4

Câu hỏi về sự sống lại

27 Có mấy người Sa-đu-sê, là những người nói rằng không có sự sống lại, đến với Đức Chúa Jêsus và hỏi: 28 “Thưa Thầy, Môi-se đã ghi luật nầy cho chúng tôi: ‘Nếu một người có anh qua đời để lại vợ nhưng không có con thì người ấy phải lấy vợ góa đó để có con nối dõi cho anh mình.’ 29 Vậy, có bảy anh em kia, người anh cả cưới vợ rồi chết, không con. 30 Người thứ hai 31 rồi đến người thứ ba cũng lấy vợ đó; tất cả bảy người cũng vậy, đều chết đi, không có con. 32 Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. 33 Như vậy, lúc sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai? Vì bảy người đều đã lấy nàng làm vợ.”

34 Đức Chúa Jêsus đáp: “Con cái đời nầy lấy vợ gả chồng, 35 còn những người được kể là xứng đáng dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết thì không lấy vợ hoặc gả chồng. 36 Họ sẽ không chết nữa, vì giống như các thiên sứ và là con của Đức Chúa Trời, tức là con của sự sống lại. 37 Còn về việc kẻ chết sống lại, ngay cả Môi-se cũng đã cho thấy trong câu chuyện về bụi gai, khi người gọi Chúa là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác và Đức Chúa Trời của Gia-cốp. 38 Vậy, Ngài không phải là Đức Chúa Trời của kẻ chết, nhưng của người sống; vì đối với Ngài, tất cả đều đang sống.”

39 Có mấy thầy thông giáo nói với Ngài: “Thưa Thầy, Thầy nói đúng lắm!” 40 Và họ không dám hỏi Ngài câu nào nữa.

Đấng Christ con vua Đa-vít

41 Đức Chúa Jêsus hỏi họ: “Tại sao người ta lại nói Đấng Christ là con vua Đa-vít? 42 Vì chính vua Đa-vít đã nói trong sách Thi Thiên rằng:

‘Chúa phán với Chúa tôi: Hãy ngồi bên phải Ta, 43 Cho đến khi Ta đặt các kẻ thù của con làm bệ chân cho con.’

44 Như thế, vua Đa-vít gọi Ngài là Chúa, vậy làm sao Ngài lại là con vua ấy được?”

Cảnh giác đối với các thầy thông giáo

45 Khi dân chúng đang lắng nghe thì Chúa phán với các môn đồ: 46 “Hãy đề phòng các thầy thông giáo là những người ưa mặc áo dài đi dạo, thích được chào giữa phố chợ, muốn ngồi ghế quan trọng nhất trong các nhà hội và chỗ danh dự trong các bữa tiệc. 47 Họ làm bộ đọc lời cầu nguyện dài mà nuốt nhà của các bà góa. Họ sẽ bị đoán phạt nặng hơn.”

Bà góa dâng hiến

21 Đức Chúa Jêsus ngước mắt lên, thấy những người giàu đang bỏ tiền dâng của họ vào thùng lạc hiến. 2 Ngài cũng thấy một bà góa nghèo dâng vào hai đồng tiền. 3 Ngài phán: “Thật, Ta bảo các con, bà góa nghèo nầy đã dâng nhiều hơn tất cả những người khác. 4 Vì mọi người đều lấy của dư mình mà dâng, còn bà góa nầy rất nghèo túng nhưng đã dâng tất cả những gì bà ấy có để nuôi sống mình.”

Bình luận

Người chết sẽ trỗi dậy

Khi chúng ta bắt đầu nghĩ về sự sống lại và cuộc sống sau khi chết, thật khó tưởng tượng nó sẽ như thế nào. Mọi người sẽ trông như thế nào? Bạn sẽ có kiểu cơ thể nào? Chúng ta có mối liên hệ với nhau như thế nào?

Đôi khi, người ta dùng những loại câu hỏi này để gợi ý rằng ý tưởng về sự sống lại là hoang đường hoặc thậm chí vô lý. Người Sa-đu-sê, ‘những người nói rằng không có sự sống lại’ (20:27, VIE2010). Họ đến gặp Chúa Giê-su với loại câu hỏi mẹo này về một người phụ nữ có bảy đời chồng, hỏi một cách chế giễu mọi chuyện sẽ ra sao với sự sống lại.

Chúa Giêsu đã trả lời bằng cách giải thích rằng câu hỏi của họ là thiếu sót bởi vì họ đang làm việc với một tâm trí thế gian này. Sự phục sinh sẽ biến đổi tất cả các mối quan hệ con người của chúng ta và nhu cầu kết hôn như một phương tiện để duy trì dòng dõi sẽ không còn nữa (c.34–36).

Chúa Giê-su trả lời câu hỏi, nhưng sau đó tiếp tục đề cập đến vấn đề thực sự. Những người Sa-đu-sê không ấn tượng với những gợi ý về sự phục sinh trong Cựu Ước vì họ đặt nặng hơn nhiều vào năm cuốn sách đầu tiên của Kinh thánh (Ngũ kinh).

Chúa Giê-su đã phản biện lại họ bằng cách trích dẫn một trong những cuốn sách này: ‘Còn về việc kẻ chết sống lại, ngay cả Môi-se cũng đã cho thấy trong câu chuyện về bụi gai, khi người gọi Chúa là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác và Đức Chúa Trời của Gia-cốp. Vậy, Ngài không phải là Đức Chúa Trời của kẻ chết, nhưng của người sống; vì đối với Ngài, tất cả đều đang sống’ (c.37–38).

Chúa Giêsu cho thấy rõ ràng Ngài tin tưởng hoàn toàn, không chỉ vào sự sống lại của chính Ngài, mà còn vào một sự “sống lại từ cõi chết” lớn lao hơn nhiều (c.35). Những người trỗi dậy ‘không chết nữa, vì giống như các thiên sứ và là con của Đức Chúa Trời, tức là con của sự sống lại’ (c.36).

Tất nhiên, tất cả phụ thuộc vào việc Chúa Giê-su có phải là người mà Ngài tuyên bố hay không. Chúa Giê-xu chỉ ra rằng Ngài không chỉ là con trai của Đa-vít, Ngài còn là Chúa của Đa-vít (c.41–44). Nếu Chúa Giê-xu là Chúa, bạn có thể tin chắc vào lời đảm bảo của Ngài rằng “kẻ chết sống lại” (c.37).

Nếu bạn thực sự tin vào sự sống lại, nó sẽ thay đổi thái độ của bạn đối với mọi thứ trong cuộc sống, kể cả tài sản của bạn. Giống như bà góa (21:1-4), bạn được thử thách dâng hiến cách rộng lượng, xem nhẹ tài sản của mình và cuối cùng, sẵn sàng từ bỏ mọi thứ bạn có trong cuộc đời này.

Hơn nữa, bạn có một quan điểm hoàn toàn khác về cuộc sống này. Có hy vọng thực sự khi đối mặt với bi kịch của cái chết. Cuộc đời này mới chỉ là bắt đầu.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, con cảm ơn Chúa rất nhiều vì đã chết cho con và cảm ơn vì niềm hy vọng tuyệt vời mà con có được nhờ sự phục sinh của Chúa. Cảm ơn Ngài vì quyền năng đã khiến Chúa Giê-su sống lại từ cõi chết cũng sẽ khiến chúng con sống lại.

Cựu Ước

Phục truyền 33:1-34:42

Lời chúc phước của Môi-se dành cho các bộ tộc Y-sơ-ra-ên

33 Đây là lời chúc phước mà Môi-se, người của Đức Chúa Trời, đã chúc cho dân Y-sơ-ra-ên trước khi qua đời. 2 Ông nói:

“Đức Giê-hô-va đến từ Si-na-i,
  Chiếu soi trên chúng ta từ Sê-i-rơ,
  Và rạng ngời từ núi Pha-ran;
  Ngài đến từ giữa muôn nghìn đấng thánh,
  Lửa luật pháp phát ra từ tay phải của Ngài.

3 Chúa thương yêu dân Ngài,
  Tất cả các thánh đều ở trong tay Chúa,
  Phủ phục dưới chân Ngài
  Để đón nhận lời Ngài chỉ dạy.
4 Luật pháp mà Môi-se truyền cho chúng tôi
  Là sản nghiệp của cộng đồng Gia-cốp.
5 Ngài là vua của Giê-su-run
  Khi cấp lãnh đạo của dân chúng họp lại
  Cùng với các bộ tộc Y-sơ-ra-ên.

6 Cầu cho Ru-bên sống và lưu truyền mãi mãi.
  Dù cho số người nó không đông.”

7 Về Giu-đa, Môi-se nói rằng:

  “Lạy Đức Giê-hô-va, xin Ngài nghe tiếng của Giu-đa
  Và đem người về với dân mình;
  Dùng đôi tay tự bảo vệ mình.
  Xin Chúa giúp người chống lại quân thù.”

8 Về Lê-vi, Môi-se nói rằng:

“Xin ban Thu-mim cho Lê-vi
  Và U-rim cho người tin kính Ngài.
Mà Ngài đã thử thách tại Ma-sa,
  Cùng tranh đấu bên mạch nước Mê-ri-ba.
9 Lê-vi nói về cha mẹ mình rằng:
  ‘Tôi không nhìn thấy họ,’
Người không nhận anh em mình,
  Cũng chẳng biết con cái mình.
Vì họ tuân thủ lời Chúa,
  Giữ gìn giao ước của Ngài.
10 Họ dạy mệnh lệnh của Chúa cho Gia-cốp
  Và luật pháp Ngài cho Y-sơ-ra-ên;
Họ dâng hương trước mặt Chúa,
  Và tế lễ toàn thiêu trên bàn thờ Ngài.
11 Lạy Đức Giê-hô-va, xin ban sức lực cho người,
  Và hài lòng về công việc của tay người.
Xin đánh gãy hông của kẻ thù,
  Và kẻ ghen ghét, để chúng không ngóc đầu lên nổi!”

12 Về Bên-gia-min, Môi-se nói rằng:

“Người được Đức Giê-hô-va yêu mến,
  Sẽ được sống yên lành bên Ngài.
  Chúa che chở người suốt đời,
  Và ngự giữa núi đồi của người.”

13 Về Giô-sép, Môi-se nói rằng:

“Nguyện đất của người được Đức Giê-hô-va ban phước,
  Với sương móc quý báu từ trời ban tặng,
  Và những mạch suối ngầm nằm ngay bên dưới;
14 Với sản phẩm tuyệt hảo từ mặt trời,
  Và sự phong phú đến từ mặt trăng;
15 Những sản vật hàng đầu của núi xưa,
  Các bông trái dồi dào từ các đồi vĩnh cửu;
16 Với tặng phẩm quý cùng sự sung mãn của đất,
  Và ơn lành của Đấng ngự giữa bụi gai.
Nguyện mọi phước nầy tuôn tràn trên đầu Giô-sép
  Và trên trán của người đứng đầu anh em mình.
17 Oai phong như con bò đực đầu lòng,
  Với cặp sừng dũng mãnh của bò rừng!
Người dùng sừng ấy quật ngã mọi dân tộc,
  Cả đến các dân ở cùng trời cuối đất;
Đó là hàng vạn quân Ép-ra-im,
  Hàng nghìn người Ma-na-se.”

18 Về Sa-bu-lôn, Môi-se nói rằng:

“Hỡi Sa-bu-lôn, hãy vui mừng trong lúc ra đi;
  Còn Y-sa-ca, hãy hớn hở trong lều trại mình!
19 Họ sẽ gọi các dân lên núi,
  Dâng sinh tế công chính tại đó;
Vì họ sẽ hút tài nguyên của biển
  Và những kho tàng ẩn giấu trong cát.”

20 Về Gát, Môi-se nói rằng:

“Tụng ca Đấng mở rộng bờ cõi Gát,
  Gát nằm rình như một sư tử cái
Vồ xé mồi cả tay lẫn đầu.
21 Người đã chọn phần tốt nhất cho mình.
  Vì trong đó có dành phần cho người lãnh đạo;
Khi những nhà lãnh đạo dân chúng tụ họp lại,
  Gát thực thi công lý của Đức Giê-hô-va
Và các luật lệ của Ngài cho dân Y-sơ-ra-ên.”

22 Về Đan, Môi-se nói rằng:

“Đan là một sư tử tơ,
Từ Ba-san nhảy xông đến.”

23 Về Nép-ta-li, Môi-se nói rằng:

“Nép-ta-li ngập tràn ân phước Chúa,
  Chan chứa phước lành của Đức Giê-hô-va
  Hãy chiếm hữu phần đất phía tây và phía nam.”

24 Về A-se, Môi-se nói rằng:

“Nguyện A-se được phước hơn các con trai khác,
  Được anh em ưa chuộng,
  Và được dầm chân trong dầu!
25 Các then cửa làm bằng sắt và đồng,
Sức mạnh dẻo dai suốt cuộc đời.”

26 “Ồ Giê-su-run, không có ai như Đức Chúa Trời,
  Đấng đến cứu giúp cưỡi các tầng trời
  Uy nghiêm trên những đám mây.
27 Đức Chúa Trời hằng hữu là nơi ẩn náu,
  Cánh tay đời đời của Ngài nâng đỡ chúng ta.
Ngài sẽ đuổi kẻ thù khuất mắt
  Và phán rằng: ‘Hãy diệt chúng đi!’
28 Nhờ vậy chỉ một mình Y-sơ-ra-ên sống trong an lành;
  Suối Gia-cốp phun lên
Trong xứ sở của ngũ cốc và rượu,
  Đượm nhuần sương móc từ trời.
29 Hỡi Y-sơ-ra-ên ngươi có phước biết bao!
  Một dân được Đức Giê-hô-va cứu giúp! Ai được như ngươi?
Ngài là thuẫn giúp đỡ ngươi,
  Là thanh gươm đem vinh quang đến cho ngươi!
Kẻ thù sẽ khúm núm trước ngươi,
  Còn ngươi sẽ giày đạp các nơi cao của chúng.”

Môi-se qua đời

34 Từ cao nguyên Mô-áp, Môi-se lên đỉnh Phích-ga, trên núi Nê-bô, đối diện Giê-ri-cô. Tại đó, Đức Giê-hô-va cho ông xem toàn bờ cõi, từ Ga-la-át đến Đan, 2 toàn xứ Nép-ta-li, vùng đất Ép-ra-im và Ma-na-se, toàn xứ Giu-đa cho đến tận Biển Tây, 3 vùng Nê-ghép và vùng đồng bằng, tức là thung lũng Giê-ri-cô, thành Cây Chà Là, cho đến Xoa. 4 Đức Giê-hô-va phán với ông: “Đây chính là xứ mà Ta đã thề ban cho Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp khi Ta nói: ‘Ta sẽ ban xứ nầy cho dòng dõi con.’ Ta cho con xem tận mắt xứ ấy nhưng con sẽ không được vào đó.”

5 Môi-se, đầy tớ của Đức Giê-hô-va, qua đời tại đó, trên cao nguyên Mô-áp, như lời Ngài đã phán. 6 Đức Giê-hô-va chôn ông trong một thung lũng thuộc xứ Mô-áp, đối diện với Bết Phê-ô. Cho đến nay không có ai biết được nơi an táng của ông. 7 Môi-se qua đời khi ông được một trăm hai mươi tuổi, nhưng mắt ông không mờ, sức ông không giảm. 8 Con dân Y-sơ-ra-ên thương khóc Môi-se suốt ba mươi ngày trên cao nguyên Mô-áp. Sau đó, họ chấm dứt những ngày thương khóc và để tang cho Môi-se.

9 Giô-suê, con trai của Nun, được đầy dẫy thần khôn ngoan vì Môi-se đã đặt tay trên ông. Dân Y-sơ-ra-ên vâng lời Giô-suê và làm theo mọi điều Đức Giê-hô-va đã phán truyền qua Môi-se.

10 Về sau, trong Y-sơ-ra-ên không còn xuất hiện một nhà tiên tri nào giống như Môi-se, người được Đức Giê-hô-va biết mặt đối mặt. 11 Không ai như ông, người được Đức Giê-hô-va sai làm những dấu lạ phép mầu tại Ai Cập trước mặt Pha-ra-ôn, quần thần và cả xứ sở của vua ấy. 12 Không ai thực hiện được những việc vĩ đại và đáng sợ như cánh tay mạnh mẽ của Môi-se đã thực hiện trước mắt toàn dân Y-sơ-ra-ên.

Bình luận

Những cánh tay vĩnh cửu

Nếu một người nào đó có một kết thúc tốt đẹp cho cuộc đời của họ thì đó là Môi-se: ‘Môi-se qua đời khi ông được một trăm hai mươi tuổi, nhưng mắt ông không mờ, sức ông không giảm’ (34:7, VIE2010). Ông đã sống một cuộc đời biết Chúa ‘mặt đối mặt’ (c.10).

Môi-se đã được Đức Chúa Trời sử dụng rất nhiều: ‘Không ai thực hiện được những việc vĩ đại và đáng sợ như cánh tay mạnh mẽ của Môi-se đã thực hiện trước mắt toàn dân Y-sơ-ra-ên.’ (c.12).

Một trong những thách thức lớn trong cuộc sống là kết thúc cách tốt đẹp. Một phần của việc kết thúc tốt đẹp là là lập kế hoạch kế nhiệm.

Môi-se đã hoàn thành xuất sắc. Ông đã lên kế hoạch để Giô-suê làm người kế vị mình: ‘Giô-suê, con trai của Nun, được đầy dẫy thần khôn ngoan vì Môi-se đã đặt tay trên ông. Dân Y-sơ-ra-ên vâng lời Giô-suê và làm theo mọi điều Đức Giê-hô-va đã phán truyền qua Môi-se’ (c.9). Đây là một trong số ít ví dụ về sự xức dầu của Đức Chúa Trời truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Trước khi chết, Môi-se đã ban phước cho tất cả các bộ tộc khác nhau bằng những lời phi thường. Chẳng hạn, về Bên-gia-min, ông nói: “Người được Đức Giê-hô-va yêu mến, Sẽ được sống yên lành bên Ngài. Chúa che chở người suốt đời, Và ngự giữa núi đồi của người’ (33:12).

Khi đi đến cuối cùng, sau khi ban phước cho từng bộ tộc, ông nói, 'Ồ Giê-su-run, Không có ai như Đức Chúa Trời, Đấng đến cứu giúp cưỡi các tầng trời, Uy nghiêm trên những đám mây. Đức Chúa Trời hằng hữu là nơi ẩn náu, Cánh tay đời đời của Ngài nâng đỡ chúng ta.’ (c.26–27a).

Môi-se có lẽ đã nhận ra rằng chết không phải là hết. Ông tin cậy Đức Chúa Trời đời đời và ông biết vòng tay của Ngài là vĩnh cửu.

Điều này không hoàn toàn loại bỏ nỗi đau và nỗi buồn của cái chết. Dân sự than khóc khi Môi-se qua đời (34:8a). Việc chúng ta đau buồn là điều tự nhiên và quan trọng và nó cần thiết để chúng ta phải làm như vậy. Cảm xúc của bạn là do Chúa ban và không nên kìm nén.

Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa sự đau buồn không có hy vọng và sự đau buồn của người tin Chúa có hy vọng về sự sống lại (1 Tê-sa-lô-ni-ca 4:13).

Tôi đã dự nhiều lễ tang và lễ tưởng niệm trong nhiều năm và thường những lời mở đầu là những lời tuyệt vời, trấn an, an ủi và mạnh mẽ này: ‘Đức Chúa Trời hằng hữu là nơi ẩn náu, Cánh tay đời đời của Ngài nâng đỡ chúng ta.’ (Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:27a).

Cầu nguyện

Lạy Chúa, xin cho con được như Môi-se, được sống 'mặt đối mặt' với Chúa, và biết rằng Thiên Chúa hằng hữu là nơi nương náu của con và Ngài nâng đỡ con dưới cánh tay đời đời.

Pippa chia sẻ

Phục Truyền 33:26–27a

Ồ Giê-su-run, không có ai như Đức Chúa Trời,
Đấng đến cứu giúp cưỡi các tầng trời
Uy nghiêm trên những đám mây.
27Đức Chúa Trời hằng hữu là nơi ẩn náu,
Cánh tay đời đời của Ngài nâng đỡ chúng ta.'

Những lời an ủi tuyệt vời khi đối mặt với thời điểm khó khăn.

reader

App

Tải xuống ứng dụng Kinh Thánh Trong Một Năm dành cho thiết bị iOS hoặc Android và đọc theo mỗi ngày.

reader

Email

Đăng ký ngay bây giờ để nhận Kinh thánh trong một năm trong hộp thư đến của bạn mỗi sáng. Bạn sẽ nhận được một email mỗi ngày.

reader

Website

Bắt đầu đọc sự tận tâm của ngày hôm nay ngay tại đây trên trang web BiOY.

Read now
reader

Book

Kinh thánh trong một năm bình luận có sẵn như là một cuốn sách.

Tham khảo

The One Year® là nhãn hiệu đã đăng ký của Tyndale House Publishers. Được sử dụng bởi sự cho phép.

Trừ khi có quy định khác, các trích dẫn Kinh thánh được lấy từ Kinh thánh, Phiên bản quốc tế mới được Anh hóa, Bản quyền © 1979, 1984, 2011 Biblica, trước đây là Hiệp hội Kinh thánh Quốc tế. Được sử dụng dưới sự cho phép của Hodder & Stoughton Publishers, một công ty của Hachette UK. Đã đăng ký Bản quyền. 'NIV' là nhãn hiệu đã đăng ký của Biblica. Nhãn hiệu Vương quốc Anh số 1448790.

Thánh Kinh được đánh dấu (MSG) lấy từ The Message. Bản quyền © 1993, 1994, 1995, 1996, 2000, 2001, 2002. Được sử dụng dưới sự cho phép của NavPress Publishing Group.

This website stores data such as cookies to enable necessary site functionality and analytics. Find out more