Ngày 125

Ba Cách Để Biến Đổi Thế Giới Của Bạn

Khôn ngoan Châm Ngôn 11:9-18
Tân ước Giăng 4:1-26
Cựu Ước Các Quan Xét 1:1-2:5

Giới thiệu

Martin Luther King Jr (1929–1968) đã sống và chết để chứng kiến xã hội chuyển mình. Năm 1964, ông trở thành người trẻ tuổi nhất từng nhận giải Nobel Hòa bình - vì công việc chấm dứt phân biệt xã hội và phân biệt chủng tộc.

Ông ấy đã nói một cách mạnh mẽ và đáng nhớ về giấc mơ của mình rằng một ngày nào đó, ông ấy sẽ sống trong một quốc gia mà con cái của ông ấy sẽ ‘không bị đánh giá bởi màu da mà bởi phẩm chất của chúng’.

Ông ấy mơ về một thế giới được biến đổi, nơi mọi người có thể chung tay và nói, 'Cuối cùng cũng được tự do! Cảm ơn Chúa toàn năng, cuối cùng chúng con cũng được tự do!’

Martin Luther King Jr là một tín đồ của Chúa Giê-su. Chương trình nghị sự của ông là vương quốc của Đức Chúa Trời. Vương quốc của Đức Chúa Trời không chỉ là về sự biến đổi của các cá nhân - mặc dù đó là điều quan trọng - mà còn về sự biến đổi của xã hội.

Khôn ngoan

Châm Ngôn 11:9-18

9 Kẻ vô đạo dùng môi miệng làm hại người lân cận,
   Nhưng người công chính nhờ tri thức mà được giải cứu.

10 Khi người công chính may mắn, cả thành vui vẻ,
   Và khi kẻ ác bị diệt vong thì có tiếng reo mừng. \t 11 Nhờ phước lành của người ngay thẳng, thành phố được tôn cao,
   Nhưng do miệng kẻ gian ác, thành bị sụp đổ.

12 Ai xem thường người lân cận mình là người thiếu hiểu biết,
   Nhưng người thông sáng giữ im lặng. \t 13 Kẻ mách lẻo tiết lộ điều thầm kín,
   Còn người đáng tin cậy giữ kín việc riêng tư.

14 Không có lãnh đạo, dân tộc sẽ sụp đổ,
   Nhưng nhờ có nhiều cố vấn mà được an toàn. \t 15 Ai bảo lãnh cho người lạ sẽ mang họa,
   Nhưng ai ghét việc bảo lãnh sẽ được an thân. \t 16 Người đàn bà nhân hậu được tôn trọng,
   Còn người đàn ông mạnh mẽ sẽ được tài sản. \t 17 Người nhân hậu làm ích cho linh hồn mình,
   Còn kẻ hung bạo làm hại bản thân. \t 18 Kẻ làm điều ác nhận tiền công hư ảo,
   Nhưng người gieo điều công chính được phần thưởng chắc chắn.

Bình luận

1. Hãy là một nguồn phước cho quốc gia của bạn

Cuộc đời của bạn có thể có ảnh hưởng không chỉ với gia đình và cộng đồng địa phương của bạn, mà còn đối với thành phố của bạn và thậm chí đối với cả quốc gia.

Tác giả Châm ngôn đưa ra quan điểm rằng cách chúng ta sống với tư cách cá nhân không chỉ ảnh hưởng đến bản thân mà còn ảnh hưởng đến thế giới xung quanh chúng ta – theo hướng tốt hoặc xấu.

Một mặt, “Khi người công chính may mắn, cả thành vui vẻ,” (c.10). Và ‘Nhờ phước lành của người ngay thẳng, thành phố được tôn cao’ (c.11a). Mặt khác, ‘miệng kẻ ác’ có thể phá hủy một thành phố (c.11b). Và, ‘Không có lãnh đạo, dân tộc sẽ sụp đổ,’ (c.14).

Vậy thì bạn nên sống như thế nào? Đừng nói xấu những người hàng xóm của bạn, mà hãy kiềm chế và giữ im lặng (c.12). Đừng ngồi lê đôi mách nhưng hãy là người đáng tin cậy khi giữ bí mật(c.13).

Tất cả chúng ta đều cần những người khôn ngoan, tin kính xung quanh mình để đưa ra lời khuyên hữu ích: ‘Không có lãnh đạo, dân tộc sẽ sụp đổ, Nhưng nhờ có nhiều cố vấn mà được an toàn.’ (c.14). Nếu bạn có những cố vấn khôn ngoan, hãy thường xuyên hỏi ý kiến họ. Nếu bạn không có họ, hãy cầu xin Chúa cung cấp cho bạn những cố vấn như vậy.

Hãy có lòng nhân từ (c.16) và gieo sự công chính (c.18). Nếu bạn sống như vậy, cả thế giới xung quanh bạn sẽ bị ảnh hưởng.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, xin giúp con trở thành người có ảnh hưởng tốt trong thành phố và quốc gia của con để con có thể thấy cả thế giới xung quanh con được biến đổi.

Tân ước

Giăng 4:1-26

Đức Chúa Jêsus và người phụ nữ Sa-ma-ri

1 Khi Đức Chúa Jêsus biết được người Pha-ri-si có nghe nói Ngài thu nhận và làm báp-têm nhiều môn đồ hơn Giăng, 2 (Thật ra không phải chính Đức Chúa Jêsus làm báp-têm, nhưng là các môn đồ của Ngài), 3 thì Ngài rời miền Giu-đê trở về miền Ga-li-lê.

4 Nhưng Ngài phải đi ngang qua vùng Sa-ma-ri. 5 Vậy, Ngài đến một thành của vùng Sa-ma-ri, gọi là Si-kha, gần cánh đồng mà Gia-cốp đã cho con mình là Giô-sép. 6 Tại đó có cái giếng Gia-cốp. Vì đi đường mệt mỏi, nên Đức Chúa Jêsus ngồi lại bên giếng. Lúc ấy vào khoảng mười hai giờ trưa.

7 Một phụ nữ Sa-ma-ri đến múc nước. Đức Chúa Jêsus nói với bà: “Cho Ta xin nước uống.” 8 Lúc ấy, các môn đồ Ngài đã đi ra phố mua thức ăn.

9 Người phụ nữ Sa-ma-ri nói: “Sao ông là một người Do Thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho uống nước?” (Vì người Do Thái vốn không giao tiếp với người Sa-ma-ri.)

10 Đức Chúa Jêsus đáp: “Nếu chị biết quà tặng của Đức Chúa Trời, và Người đang nói với chị: ‘Cho Ta xin nước uống’ là ai thì chắc chắn chị sẽ nài xin Người, và Người sẽ cho chị nước sống.”

11 Người phụ nữ nói: “Thưa ông, ông không có gầu múc, mà giếng thì sâu, vậy ông lấy đâu ra nước sống ấy? 12 Tổ phụ chúng tôi là Gia-cốp đã cho chúng tôi giếng nầy; chính Gia-cốp, các con và bầy gia súc của người đều uống ở giếng nầy, vậy ông lớn hơn Gia-cốp sao?”

13 Đức Chúa Jêsus đáp: “Ai uống nước nầy sẽ còn khát mãi, 14 nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ khát nữa. Nước Ta cho sẽ trở thành một mạch nước trong người ấy, tuôn trào đến tận sự sống đời đời.”

15 Người phụ nữ nói: “Thưa ông, xin cho tôi nước ấy, để tôi không còn khát và khỏi đến đây múc nước nữa.”   16 Ngài bảo: “Hãy đi gọi chồng chị, rồi trở lại đây.”

17 Người phụ nữ thưa: “Tôi không có chồng.”

Đức Chúa Jêsus nói: “Chị bảo rằng chị không có chồng là phải, 18 vì chị đã có năm đời chồng, còn người mà chị hiện có không phải là chồng chị; điều nầy chị đã nói thật.”

19 Người phụ nữ nói: “Thưa ông, tôi nhận biết ông là một nhà tiên tri. 20 Tổ phụ chúng tôi thờ phượng trên núi nầy, còn các ông thì nói rằng thành Giê-ru-sa-lem mới là chỗ đáng thờ phượng.”

21 Đức Chúa Jêsus đáp: “Nầy, người phụ nữ kia, hãy tin Ta, giờ sắp đến, các ngươi không còn thờ phượng Cha trên núi nầy hay tại thành Giê-ru-sa-lem nữa. 22 Các ngươi thờ phượng Đấng các ngươi không biết, còn chúng ta thờ phượng Đấng chúng ta biết, vì sự cứu rỗi đến từ người Do Thái. 23 Giờ sắp đến và đã đến rồi, khi những người thờ phượng chân thật sẽ thờ phượng Cha bằng tâm linh và chân lý; ấy là những người thờ phượng mà Cha tìm kiếm. 24 Đức Chúa Trời là thần linh, nên những người thờ phượng Ngài phải thờ phượng bằng tâm linh và chân lý.”

25 Người phụ nữ thưa: “Tôi biết rằng Đấng Mê-si-a (nghĩa là Đấng Christ) sẽ đến. Khi Ngài đến, Ngài sẽ công bố cho chúng tôi mọi điều.”

26 Đức Chúa Jêsus phán: “Ta, người đang nói với chị đây, chính là Đấng đó.”

Bình luận

2. Phá vỡ mọi sự chia rẽ

Mỗi hội thánh nên là một hội thánh cởi mở với tất cả mọi người bởi vì tình yêu của Chúa là hoàn toàn không phân biệt. Hội thánh nên được biết đến vì tình yêu ở trong đó. Chúng ta nên chào đón mọi người bất kể giới tính, chủng tộc hay lối sống của họ. Chúa Giê-su đến để phá bỏ mọi rào cản trong xã hội chúng ta.

Danh tiếng của Chúa Giê-su ngày càng tăng. ‘phái Pha-ri-si đã được báo rằng Ngài làm báp-tem và thu nạp nhiều môn đệ hơn Giăng’ (c.1–2).

Chúa Giê-su không quan tâm đến ganh đua, danh vọng hay cạnh tranh: ‘Khi Chúa biết được điều này, thì Ngài rời miền Giu-đê trở về miền Ga-li-lê’ (c.3). Ông rất quan tâm đến việc giúp đỡ một người Sa-ma-ri. Ngài dành thời gian để chăm sóc bà ấy. Mẹ Teresa nói, 'Đừng bao giờ lo lắng về số lượng. Giúp từng người một và luôn bắt đầu với người gần bạn nhất.’

Trong cuộc gặp gỡ này, Chúa Giêsu đã minh họa rằng một trong những cách mà xã hội sẽ được biến đổi là phá bỏ sự chia rẽ.

Chấm dứt cuộc chiến giữa hai giới

Chúa Giêsu đã có một cuộc trò chuyện kéo dài với một người phụ nữ ở nơi công cộng. Điều này đã đi ngược lại với các quy ước thời bấy giờ. Các giáo sĩ Do Thái nghiêm khắc thậm chí còn cấm một giáo sĩ Do Thái chào hỏi một người phụ nữ ở nơi công cộng, chứ đừng nói đến việc trò chuyện lâu. Khi các môn đệ trở lại, “Họ kinh ngạc khi thấy Ngài nói chuyện với một phụ nữ” (c.27).

Như John Stott đã viết, 'Không cần ồn ào hay công khai, Chúa Giê-su đã chấm dứt sự rủa sả của Sự sa ngã, tái đầu tư cho phụ nữ danh dự đã bị mất đi một phần và đòi lại cho cộng đồng vương quốc mới của Ngài phước lành ban đầu về bình đẳng giới.'

Các giới không nên có chiến tranh. Như Đức Bênêđictô XVI đã nói, “Trong Đấng Christ, sự kình địch, thù địch và bạo lực làm biến dạng mối quan hệ giữa nam và nữ có thể được khắc phục và đã được khắc phục.”

Chấm dứt phân biệt chủng tộc và phân biệt đối xử

Sự chia rẽ giữa người Do Thái và người Sa-ma-ri đã có từ lâu. Người Sa-ma-ri là một dân tộc thiểu số bị khinh bỉ và không có quyền hành – bị dìm xuống và không có giá trị. Giăng giải thích rằng “Người Do Thái thời đó sẽ không bị bắt quả tang khi nói chuyện với người Sa-ma-ri” (c.9).

Chúa Giê-su không thỏa hiệp với sự thật: ‘Sự cứu rỗi đến từ người Do Thái’ (c.22). Tuy nhiên, ngài đã tìm đến người phụ nữ Sa-ma-ri này. Khi làm như vậy, Ngài phá vỡ sự rủa sả phân biệt chủng tộc, phân biệt đối xử. Sự chuyển mình của xã hội đòi hỏi phải phá bỏ bức tường ngăn cách chủng tộc và sắc tộc.

Chấm dứt chiến tranh giai cấp và phân chia xã hội

Chúa yêu bạn bất kể lối sống trước đây hay lối sống hiện tại của bạn. Cảm ơn Chúa, Ngài yêu những người không hoàn hảo.

Khi xin người đàn bà nước, Chúa Giê-su chỉ cho chúng ta cách tiếp cận những người bị suy sụp và bị thương – không trịch thượng như một người bề trên nhưng khiêm tốn như một người hành khất.

Người phụ nữ này đã bị xã hội ruồng bỏ. Từng có nhiều mối quan hệ tan vỡ, bị chính người dân của mình từ chối và chế giễu, bà đi lấy nước một mình vào giữa trưa.

Chúa Giê-su không chỉ nói chuyện với một phụ nữ Sa-ma-ri, mà ngài còn nói chuyện với một ‘tội nhân’. Người phụ nữ này đã có một cuộc sống vô đạo đức. ‘Chị đã có năm đời chồng, còn người mà chị hiện có không phải là chồng chị’ (c.18). Bà đã ly hôn nhiều lần và hiện đang sống với một người đàn ông mà bà không kết hôn. Chúa Giê-su không thỏa hiệp với sự thật, nhưng Ngài cũng không phán xét, lên án hay từ chối người phụ nữ Sa-ma-ri vì lối sống hay địa vị xã hội của bà (xem Mác 2:17; Giăng 8:10-11).

Tôn giáo không trộn lẫn với 'tội nhân'. Bằng cách tương tác với người phụ nữ có tình dục sai trái này, Chúa Giê-su đã phá vỡ một rào cản khác. Tình yêu của Ngài đến với mọi tầng lớp xã hội – vượt qua mọi rào cản về giai cấp, lối sống và địa vị xã hội.

Cuối cùng, chỉ có Chúa Thánh Linh mới có thể mang lại sự biến đổi của xã hội. Chính Chúa Thánh Linh đem lại sự hiệp nhất, phá bỏ những chia rẽ về giới tính, chủng tộc và vị trí xã hội. Những người được Chúa Thánh Linh ngự trị phải đi đầu trong cuộc đấu tranh cho bình đẳng giới, chủng tộc và xã hội.

Cuộc trò chuyện của Chúa Giê-su với người phụ nữ này hoàn toàn là về Chúa Thánh Linh. Bà ấy không cần một bài giảng; bà ấy cần nước hằng sống. Người nói với bà: ‘Ai uống nước nầy sẽ còn khát mãi, 14nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ khát nữa. Nước Ta cho sẽ trở thành một mạch nước trong người ấy, tuôn trào đến tận sự sống đời đời’ (c.13–14).

Chúa Giê-su đến để làm dịu cơn khát của chúng ta về việc được chấp nhận, mối quan hệ và ý nghĩa cuộc sống. Cuộc sống chúng ta nhận được là cuộc sống chúng ta cho đi. Chúng ta trở thành nguồn sống cho người khác.

Sự biến đổi của xã hội bắt đầu với việc Chúa Thánh Linh biến đổi cuộc đời chúng ta. Nó bắt đầu bằng việc uống nước sự sống mà Chúa Giê-su ban cho tất cả những ai tin vào Ngài. Khi Chúa Thánh Linh đến sống trong bạn, Người trở thành một nguồn nước tuôn trào vĩnh viễn trong suốt cuộc đời bạn và cho đến cõi vĩnh hằng.

Bạn được biến đổi bởi Chúa Thánh Linh và bởi mối quan hệ cá nhân của bạn với Chúa. Từ ‘thờ phượng’ được sử dụng ở đây có nghĩa là ‘quỳ gối xuống, tiến lại gần trong mối quan hệ yêu thương mật thiết’ – chúng ta ‘thờ phượng Cha bằng tâm linh và chân lý’ (c.24).

Cầu nguyện

Lạy Chúa, hôm nay con đến với Chúa và uống nước hằng sống của Chúa. Cầu mong dòng nước này chảy ra từ trái tim con và biến đổi mọi mối quan hệ của con.

Cựu Ước

Các Quan Xét 1:1-2:5

Dân Y-sơ-ra-ên tiếp tục đánh chiếm những vùng đất mới

1 Sau khi Giô-suê qua đời, dân Y-sơ-ra-ên cầu hỏi Đức Giê-hô-va rằng: “Ai trong chúng con phải đi lên trước để đánh dân Ca-na-an?”

2 Đức Giê-hô-va đáp: “Bộ tộc Giu-đa phải đi lên trước. Nầy, Ta đã phó đất ấy vào tay họ.”

3 Bộ tộc Giu-đa nói với bộ tộc Si-mê-ôn, là anh em mình, rằng: “Xin anh em đi lên với chúng tôi trong phần đất chúng tôi bắt thăm được và chúng ta sẽ đánh dân Ca-na-an. Rồi chúng tôi cũng sẽ đi với anh em đến phần đất anh em đã bắt thăm.” Vậy bộ tộc Si-mê-ôn đi với họ.

4 Bộ tộc Giu-đa đi lên và Đức Giê-hô-va phó dân Ca-na-an và dân Phê-rê-sít vào tay họ. Họ đánh bại mười nghìn người tại Bê-xéc. 5 Họ cũng bắt gặp A-đô-ni Bê-xéc ở Bê-xéc, giao chiến với hắn và đánh bại dân Ca-na-an cùng với dân Phê-rê-sít. 6 A-đô-ni Bê-xéc chạy trốn, nhưng họ đuổi theo và bắt được hắn, rồi chặt ngón tay cái và ngón chân cái của hắn.

7 A-đô-ni Bê-xéc nói: “Có bảy mươi vua bị chặt ngón tay cái và ngón chân cái, lượm thức ăn thừa dưới bàn tôi. Tôi đã làm điều ấy nên Đức Chúa Trời báo trả tôi.” Người ta giải hắn đến Giê-ru-sa-lem và hắn chết tại đó.

8 Bộ tộc Giu-đa đánh chiếm thành Giê-ru-sa-lem, dùng gươm giết dân chúng và phóng hỏa thành.

9 Sau đó, bộ tộc Giu-đa đi xuống để đánh dân Ca-na-an sống trong vùng đồi núi, vùng Nê-ghép và vùng đồng bằng. 10 Họ tiến đánh dân Ca-na-an ở thành Hếp-rôn (tên Hếp-rôn thuở xưa là Ki-ri-át A-ra-ba), đánh bại các bộ tộc Sê-sai, A-hi-man, và Thanh-mai. 11 Từ đó, bộ tộc Giu-đa tiến đánh dân cư thành Đê-bia (tên Đê-bia thuở xưa là Ki-ri-át Sê-phe).

12 Ca-lép nói: “Ai đánh chiếm được thành Ki-ri-át Sê-phe thì tôi sẽ gả con gái tôi là Ạc-sa cho người ấy làm vợ.” 13 Ốt-ni-ên, con trai Kê-na, em Ca-lép, chiếm thành đó nên Ca-lép gả con gái mình là Ạc-sa cho anh ấy làm vợ.

14 Khi đến nhà Ốt-ni-ên, nàng giục chàng xin cha nàng một thửa ruộng. Nàng vừa xuống khỏi lừa thì Ca-lép hỏi: “Con muốn gì?”

15 Nàng thưa: “Xin cha cho con một món quà. Vì cha đã định cho con đất trong miền Nê-ghép, nên xin cha cũng cho con các suối nước nữa.” Vậy Ca-lép ban cho nàng Suối Thượng và Suối Hạ.

16 Con cháu của cha vợ Môi-se, là người Kê-nít, cũng từ thành Cây Chà Là đi lên với con cháu Giu-đa, đến hoang mạc thuộc địa phận Giu-đa, trong vùng Nê-ghép gần A-rát và sống chung với dân A-ma-léc.

17 Sau đó, bộ tộc Giu-đa cùng với anh em mình là bộ tộc Si-mê-ôn tiến đánh dân Ca-na-an tại Xê-phát và tận diệt nơi ấy, rồi gọi thành đó là Họt-ma. 18 Bộ tộc Giu-đa cũng chiếm thành Ga-xa và vùng phụ cận, thành Ách-ca-lôn và vùng phụ cận, thành Éc-rôn và vùng phụ cận.

19 Đức Giê-hô-va ở với bộ tộc Giu-đa và họ chiếm được vùng đồi núi. Nhưng họ không đuổi dân ở vùng đồng bằng vì chúng có xe bằng sắt. 20 Bộ tộc Giu-đa chia thành Hếp-rôn cho Ca-lép như Môi-se đã hứa. Ca-lép đuổi dòng dõi ba con trai của A-nác khỏi thành ấy. 21 Nhưng con cháu Bên-gia-min không đuổi dân Giê-bu-sít khỏi thành Giê-ru-sa-lem, nên dân Giê-bu-sít vẫn còn sống chung với con cháu Bên-gia-min cho đến ngày nay.

22 Còn nhà Giô-sép cũng lên đánh Bê-tên, và Đức Giê-hô-va ở cùng họ. 23 Vậy, nhà Giô-sép sai đi do thám Bê-tên (lúc trước thành nầy có tên là Lu-xơ). 24 Những người do thám thấy một người từ trong thành đi ra thì nói với người ấy rằng: “Xin chỉ cho chúng tôi lối vào thành thì chúng tôi sẽ đối đãi tử tế với anh.” 25 Người ấy chỉ cho họ lối vào thành và họ dùng gươm đánh giết dân trong thành, nhưng họ để cho anh ta và cả gia đình ra đi. 26 Anh ta đi đến xứ dân Hê-tít, xây một cái thành tại đó và đặt tên là Lu-xơ; tên ấy vẫn còn cho đến ngày nay.

27 Bộ tộc Ma-na-se không đuổi dân ở Bết Sê-an và vùng phụ cận, hoặc dân ở Tha-a-nác và vùng phụ cận, hoặc dân ở Đô-rơ và vùng phụ cận, hoặc dân ở Gíp-lê-am và vùng phụ cận, hoặc dân ở Mê-ghi-đô và vùng phụ cận. Vì thế, dân Ca-na-an tiếp tục sống trong vùng đất ấy. 28 Khi dân Y-sơ-ra-ên trở nên cường thịnh, họ bắt dân Ca-na-an phục dịch chứ không đuổi chúng đi hết. 29 Bộ tộc Ép-ra-im cũng không đuổi dân Ca-na-an ở Ghê-xe nên dân Ca-na-an cứ ở tại đó với họ. 30 Bộ tộc Sa-bu-lôn cũng không đuổi dân ở Kít-rôn, hoặc dân ở Na-ha-lô; dân Ca-na-an sống chung với bộ tộc Sa-bu-lôn nhưng phải phục dịch họ. 31 Bộ tộc A-se cũng không đuổi dân thành A-cô, Si-đôn, Ma-ha-lép, Ạc-xíp, Hên-ba, A-phéc và Rê-hốp. 32 Vậy, bộ tộc A-se sống chung với dân Ca-na-an là dân bản xứ, vì họ không đuổi chúng đi. 33 Bộ tộc Nép-ta-li không đuổi dân thành Bết Sê-mết và Bết A-nát, nhưng sống chung với dân Ca-na-an là dân bản địa. Tuy nhiên, dân Bết Sê-mết và dân Bết A-nát phải phục dịch bộ tộc Nép-ta-li. 34 Dân A-mô-rít dồn bộ tộc Đan lên vùng đồi núi, không cho họ xuống đồng bằng. 35 Dân A-mô-rít quyết tâm ở tại núi Hê-re, A-gia-lôn, và Sa-an-bim, nhưng nhà Giô-sép mạnh hơn nên chúng phải phục dịch họ. 36 Biên giới dân A-mô-rít chạy dọc theo địa phận dân Ê-đôm, từ đèo Ạc-ráp-bim, khoảng Sê-la trở lên.

Thiên sứ của Đức Giê-hô-va hiện ra tại Bô-kim

1 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va từ Ghinh-ganh đi đến Bô-kim và nói rằng: “Ta đã đem các con ra khỏi Ai Cập, dẫn các con vào xứ Ta thề ban cho tổ phụ các con. Ta đã phán: ‘Ta sẽ chẳng bao giờ hủy bỏ giao ước Ta đã lập với các con, 2 còn các con, chớ lập giao ước với dân xứ nầy; phải phá hủy bàn thờ của chúng.’ Nhưng các con đã không vâng theo lời Ta phán. Tại sao các con làm điều đó? 3 Vì thế Ta phán: ‘Ta sẽ chẳng đuổi các dân ấy khỏi các con, nhưng chúng sẽ như gai đâm vào hông các con, và các thần của chúng sẽ là cạm bẫy cho các con.’” 4 Khi thiên sứ của Đức Giê-hô-va vừa phán những lời nầy cho cả dân Y-sơ-ra-ên thì dân chúng cất tiếng khóc. 5 Họ gọi tên chỗ đó là Bô-kim và dâng sinh tế lên Đức Giê-hô-va tại đó.

Bình luận

3. Kêu cầu Chúa ban cho sự lãnh đạo tốt

Chúng ta đang sống trong một thế giới lộn xộn và hỗn loạn – về một số phương diện thì cũng khá giống với thế giới được mô tả trong sách Các Quan Xét.

Bước vào sách Các quan xét là một cú sốc khá lớn. Chúng tôi tìm thấy sự pha trộn của bạo lực, hãm hiếp, tàn sát, tàn bạo, lừa dối và hỗn loạn. Chúng ta thấy cách mà những con người này không thể kiềm chế được sự thờ hình tượng và tội lỗi khi họ định cư ở vùng đất hứa. Bất chấp những lời cảnh báo của Đức Chúa Trời, họ đã thỏa hiệp với những thực hành tôn giáo và đạo đức của những người xung quanh họ (2:1-2). Những người sau đó đã trở thành 'gai đâm vào hông các con, và cạm bẫy cho các con’ (c.3).

Chúa kêu gọi bạn phải hoàn toàn tàn nhẫn đối với những điều xấu xa. Ngài không muốn chúng ta thỏa hiệp. Ngài không muốn bạn chỉ đơn giản là cắt bỏ những lĩnh vực trong cuộc sống mà bạn biết là sai trái, mà là loại bỏ chúng hoàn toàn và tàn nhẫn.

Dân chúng thấy mình trong vòng bất tuân, bị kẻ thù áp bức, rồi kêu cầu Đức Chúa Trời giúp đỡ.

Chúa đã trả lời bằng cách gửi cho họ những thẩm phán (lãnh đạo). Chúa đã sử dụng tất cả những người không có khả năng làm lãnh đạo – điều này mang lại sự khích lệ lớn cho tất cả chúng ta. Được Chúa Thánh Linh trao quyền, những nhà lãnh đạo này đã giải cứu dân chúng và biến đổi thế giới của họ.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, xin hãy dấy lên những nhà lãnh đạo giỏi trong thành phố và trong nền văn hóa của chúng con, những người sẽ biến đổi thế giới của chúng con và mang lại vinh quang cho danh Chúa Giê-su.

Pippa chia sẻ

Giăng 4:1–26**

Trong số tất cả những người mà Chúa Giê-su có thể dành thời gian ở cùng, Ngài đã chọn người thấp kém nhất trong số những người thấp kém – người phụ nữ Sa-ma-ri. Trong vương quốc lộn ngược của Chúa Giê-su, Chúa Giê-su ban phẩm giá cho những người không có.

reader

App

Tải xuống ứng dụng Kinh Thánh Trong Một Năm dành cho thiết bị iOS hoặc Android và đọc theo mỗi ngày.

reader

Email

Đăng ký ngay bây giờ để nhận Kinh thánh trong một năm trong hộp thư đến của bạn mỗi sáng. Bạn sẽ nhận được một email mỗi ngày.

Sign up now
reader

Website

Bắt đầu đọc sự tận tâm của ngày hôm nay ngay tại đây trên trang web BiOY.

Read now
reader

Book

Kinh thánh trong một năm bình luận có sẵn như là một cuốn sách.

Tham khảo

Hồng y Joseph Ratzinger (Giáo hoàng Bênêđictô XVI), 'Thư gửi các Giám mục của Giáo hội Công giáo về sự hợp tác giữa nam và nữ trong Giáo hội và trên thế giới' (2004) từ Văn phòng Bộ Giáo lý Đức tin, www .vatican.va.

John Stott, Các vấn đề Cơ đốc nhân phải đối mặt ngày nay, tái bản lần thứ tư (Zondervan, 2006), tr.331.

Eugene Peterson, Thông điệp (NavPress, 2005), tr.292.

Trừ khi có quy định khác, các trích dẫn Kinh thánh được lấy từ Kinh thánh, Phiên bản quốc tế mới được Anh hóa, Bản quyền © 1979, 1984, 2011 Biblica, trước đây là Hiệp hội Kinh thánh Quốc tế. Được sử dụng dưới sự cho phép của Hodder & Stoughton Publishers, một công ty của Hachette UK. Đã đăng ký Bản quyền. 'NIV' là nhãn hiệu đã đăng ký của Biblica. Nhãn hiệu Vương quốc Anh số 1448790.

Thánh Kinh được đánh dấu (MSG) lấy từ The Message. Bản quyền © 1993, 1994, 1995, 1996, 2000, 2001, 2002. Được sử dụng dưới sự cho phép của NavPress Publishing Group.

This website stores data such as cookies to enable necessary site functionality and analytics. Find out more