Ngày 138

Biết Chúa là Cha

Khôn ngoan Thi Thiên 62:1-12
Tân ước Giăng 9:35-10:21
Cựu Ước Ru-tơ 3:1-4:22

Giới thiệu

  • Điều tốt nhất trong cuộc sống, mang lại nhiều niềm vui, thích thú và thỏa mãn hơn bất cứ điều gì khác là gì? Sự hiểu biết về Đức Chúa Trời

  • Bạn được tạo ra để làm gì? Để biết Chúa.

  • Bạn nên đặt mục tiêu gì cho mình trong cuộc sống? Để biết Chúa.

Đây là những câu hỏi mà J. I. Packer đặt ra khi bắt đầu cuốn sách có ảnh hưởng của ông, Biết Đức Chúa Trời. Chúa Giê-su nói: ‘Ta là người chăn hiền lành; Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta – cũng như Cha biết Ta và Ta biết Cha Ta’ (Ga 10,14).

Khôn ngoan

Thi Thiên 62:1-12

Đức Chúa Trời bảo vệ người tin cậy Ngài

Thi Thiên của Đa-vít, sáng tác cho nhạc trưởng, theo điệu “Giê-đu-thun”

1 Linh hồn con an nghỉ nơi một mình Đức Chúa Trời;
   Sự cứu rỗi của con từ Ngài mà đến.
2 Một mình Ngài là vầng đá và sự cứu rỗi của con;
   Cũng là nơi ẩn náu của con; con sẽ không hề bị rúng động.

3 Các ngươi xông vào đánh một người cho đến chừng nào?
   Cả bọn hiệp lại triệt hạ người ta
   Như một cái vách nghiêng, một hàng rào sắp ngã sao?
4 Chúng chỉ bàn bạc để đánh đổ người khỏi địa vị cao trọng.
   Chúng chuộng điều giả dối,
  Miệng thì chúc phước
   Nhưng trong lòng thì nguyền rủa. (Sê-la)

5 Hỡi linh hồn ta, hãy nghỉ an nơi Đức Chúa Trời,
   Vì niềm hi vọng ta đặt nơi Ngài.
6 Chỉ một mình Ngài là vầng đá và sự cứu rỗi của ta,
   Cũng là nơi ẩn náu của ta; ta sẽ chẳng bị rúng động.
7 Sự cứu rỗi và vinh quang của ta ở nơi Đức Chúa Trời;
   Ngài là vầng đá của ta, nơi ẩn náu của ta.

8Hỡi dân ta, hãy tin cậy Ngài luôn luôn;
   Hãy dốc đổ nỗi lòng mình ra trước mặt Ngài;
   Vì Đức Chúa Trời là nơi nương náu của chúng ta. (Sê-la)

9 Thật người hạ lưu chỉ là hơi thở,
   Người thượng lưu chỉ là ảo mộng;
  Đem đặt lên cân, chúng nhẹ tựa lông hồng.
   Tất cả đều nhẹ hơn hơi thở.
10 Đừng cậy sự áp bức,
   Cũng đừng hi vọng hão huyền vào của trộm cắp;
   Nếu của cải thêm nhiều, chớ chú tâm vào đó.

11 Đức Chúa Trời có phán một lần,
   Con có nghe điều nầy hai lần,
  Rằng quyền năng thuộc về Đức Chúa Trời.
12 Lạy Chúa, sự nhân từ thuộc về Ngài,
  Vì Ngài trả cho mỗi người
   Tùy theo công việc họ làm.

Bình luận

Hãy luôn tin tưởng Ngài

Thật dễ dàng để tin cậy Chúa khi mọi việc diễn ra tốt đẹp. Đa-vít thúc giục: ‘Hãy tin cậy Ngài luôn luôn' (c.8a). Luôn luôn tin cậy nơi Đức Chúa Trời có nghĩa là tin cậy Ngài không chỉ khi mọi việc diễn ra tốt đẹp mà cả khi mọi việc không suôn sẻ nữa. Bạn phát triển phẩm chất bằng cách tin tưởng Ngài khi bạn gặp khó khăn trong cuộc sống.

Biết và trông cậy Chúa đem đến:

1. Linh hồn bình an

Giữa mọi sợ hãi và lo lắng, bạn có thể tìm thấy sự bình an: ‘Linh hồn tôi tìm được nghỉ ngơi trong một mình Chúa… Linh hồn tôi ơi, hãy tìm nghỉ ngơi trong một mình Chúa’ (c.1,5)

2. Sự cứu rỗi

Sự cứu rỗi đến bởi đức tin nơi Đức Chúa Trời: ‘Linh hồn con an nghỉ nơi một mình Đức Chúa Trời; Sự cứu rỗi của con từ Ngài mà đến. Một mình Ngài là vầng đá và sự cứu rỗi của con...Sự cứu rỗi và vinh quang của ta ở nơi Đức Chúa Trời’ (c.1b–2a,7a)

3. An ninh

Mọi thứ khác trong cuộc sống đều không chắc chắn, và cuối cùng là không đủ tin tưởng để dựa vào, nhưng Đức Chúa Trời ‘là nơi ẩn náu của con, con sẽ không hề bị rúng động… Ngài là là vầng đá và sự cứu rỗi của ta’ (c.2b,6b–7b)

Giống như Chúa Giê-su, Đa-vít đối chiếu tình yêu của Đức Chúa Trời với tiền bạc: “Nếu của cải thêm nhiều, chớ chú tâm vào đó” (c.10). Khi bắt đầu hành nghề luật sư, tôi đã viết điều này bên lề cuốn Kinh thánh của mình: ‘Đây là một thông điệp quan trọng đối với tôi vào lúc này. Thời sinh viên, thật dễ dàng để không nghĩ đến tiền – nhưng bây giờ khi có nhiều tiền hơn, tôi thấy mình ngày càng nghĩ về nó nhiều hơn, nói về nó nhiều hơn. Trận chiến rất khốc liệt – sức hút của thế giới quá mạnh mẽ. Hoặc là bạn đặt lòng mình vào Chúa hoặc vào tiền bạc.’

Cầu nguyện

Lạy Cha, xin cho linh hồn con được yên nghỉ trong một mình Cha. Cảm ơn Cha vì Ngài hứa rằng tôi sẽ không bao giờ bị rúng động. Con trông cậy Ngài hôm nay.

Tân ước

Giăng 9:35-10:21

35 Đức Chúa Jêsus nghe họ đã đuổi anh ta ra, nên khi gặp anh, Ngài hỏi: “Anh có tin Con Người không?”

36 Anh trả lời: “Thưa Chúa, người ấy là ai, để tôi có thể tin vào người?”

37 Đức Chúa Jêsus đáp: “Anh đã thấy người, và ấy là người đang nói với anh.”

38 Anh nói: “Thưa Chúa, tôi tin,” rồi thờ lạy Ngài.

39 Đức Chúa Jêsus nói: “Ta đến thế gian nầy để phán xét, khiến cho người mù được thấy, còn kẻ thấy lại hóa mù.”   40 Những người Pha-ri-si đang ở gần đó nghe vậy thì nói với Ngài: “Chúng tôi cũng mù cả sao?”

41 Đức Chúa Jêsus đáp: “Nếu các ngươi mù thì không có tội gì, nhưng vì các ngươi nói: ‘Chúng tôi thấy,’ nên tội các ngươi vẫn còn.”

Người chăn chiên nhân lành

10 1 “Thật, Ta bảo thật các ngươi, người nào không do cửa mà vào chuồng chiên, lại trèo vào bằng lối khác thì người ấy là kẻ trộm cướp. 2 Nhưng ai do cửa mà vào là người chăn chiên. 3 Người canh gác mở cửa và chiên nghe tiếng người chăn. Người chăn gọi tên chiên mình và dẫn ra ngoài. 4 Khi đã đem chiên ra hết thì người chăn đi trước, chiên theo sau vì chiên quen tiếng người chăn. 5 Chiên không theo người lạ, trái lại, chúng bỏ chạy vì chiên không quen tiếng người lạ.” 6 Đức Chúa Jêsus kể ẩn dụ nầy cho họ, nhưng họ không hiểu Ngài muốn nói gì.

7 Vì vậy, Đức Chúa Jêsus lại nói: “Thật, Ta bảo thật các ngươi, Ta là cửa của chiên. 8 Tất cả những người đến trước Ta đều là quân trộm cướp, nhưng chiên không nghe chúng. 9Ta là cái cửa, nếu ai do Ta mà vào thì sẽ được cứu rỗi. Họ sẽ vào ra và gặp đồng cỏ. 10 Kẻ trộm chỉ đến để cướp, giết, và hủy diệt; còn Ta đã đến để chiên được sự sống và sự sống sung mãn.

11 Ta là người chăn nhân lành, người chăn nhân lành vì bầy chiên hi sinh mạng sống mình. 12 Kẻ chăn thuê không phải là người chăn; chiên không thuộc về nó nên khi thấy muông sói đến, nó bỏ chiên chạy trốn. Muông sói vồ lấy chiên và làm cho tan lạc. 13 Vì là kẻ chăn thuê nên nó không quan tâm gì đến chiên.

14 Ta là người chăn nhân lành. Ta biết chiên Ta, và chiên Ta biết Ta; 15 cũng như Cha biết Ta, và Ta biết Cha vậy. Ta vì bầy chiên mà hi sinh mạng sống mình. 16 Ta còn có những chiên khác không thuộc về chuồng nầy; Ta cần phải đem chúng về nữa. Chiên ấy sẽ nghe tiếng Ta, rồi sẽ chỉ có một bầy và một người chăn mà thôi. 17 Sở dĩ Cha yêu thương Ta, là vì Ta hi sinh mạng sống mình để được nhận lại. 18 Không ai cất mạng sống Ta đi được, nhưng Ta tự nguyện hi sinh. Ta có quyền hi sinh mạng sống và có quyền lấy lại. Ta đã nhận mệnh lệnh nầy từ nơi Cha Ta.”

19 Vì những lời nầy, những người Do Thái lại có sự chia rẽ. 20 Nhiều người trong số họ nói: “Ông ta bị quỷ ám, ông ta điên; sao còn nghe ông ta làm gì?”

21 Một số khác thì nói: “Đây không phải là những lời nói của một người bị quỷ ám. Làm sao quỷ có thể mở mắt cho người mù?”

Bình luận

Tận hưởng sự sung mãn đầy trọn của cuộc sống

Tôi nghĩ rằng trở thành một Cơ đốc nhân có nghĩa là kết thúc cuộc sống của tôi. Trên thực tế, tôi tìm thấy điều ngược lại. Chúa Giê-su nói rằng ngài đến để chúng ta có thể “được sự sống và sự sống sung mãn (sự sống, cho đến khi sung mãn)” (10:10,).

Người đàn ông được chữa khỏi mù lòa không gặp khó khăn gì khi tin vào Chúa Giê-su. Khi Chúa Giê-su gặp anh ta và nói: 'Anh có tin Con Người không?' (9:35), anh ta hỏi: 'Thưa Chúa, người ấy là ai, để tôi có thể tin vào người?... Hãy nói cho tôi biết để tôi tin vào Người' (c.36 ). Chúa Giê-su đáp: “Anh đã thấy người, và ấy là người đang nói với anh. Sau đó, người đàn ông nói: “Lạy Chúa, tôi tin,” và anh ta thờ lạy Ngài’ (c.37–38). Nơi Đức Giê-su, con người nhận ra mình đã gặp gỡ chính Đức Chúa Trời. Bạn cũng có thể gặp gỡ Thiên Chúa nơi Chúa Giê-su.

Chúa Giê-su giải thích làm thế nào, qua ngài, bạn có thể biết Đức Chúa Trời. Ngài sử dụng hai phép loại suy. Đầu tiên, Ngài nói về mình như là “cổng” (10:1). Từ Hy Lạp 'thura' có lẽ được dịch tốt hơn là 'cửa'. Chúa Giê-su là cửa để chiên vào và tìm được ơn cứu độ (c.9). Ngài là cửa để đến với Chúa Cha. Cánh cửa để biết Đức Chúa Trờibiết Chúa Giê-su.

Loại suy thứ hai mà Chúa Giê-su sử dụng là Ngài là Người chăn chiên nhân lành. Từ Hy Lạp cho của từ 'nhân lành' (kalos) có nghĩa là 'đẹp', 'cao quý', 'tuyệt vời'. Chiên biết người chăn: ‘Ta là người chăn nhân lành. Ta biết chiên Ta, và chiên Ta biết Ta – cũng như Cha biết Ta, và Ta biết Cha vậy.’ (c.14–15). Bối cảnh của điều này là chính Đức Chúa Trời được mô tả là 'người chăn chiên' trong Cựu Ước (ví dụ, xem Thi thiên 23:1; Ê-sai 40:11). Biết Chúa Giê-su là biết Thiên Chúa.

  • Tận hưởng cuộc sống sung mãn
    Trong mối quan hệ với Chúa Giê-su, bạn tìm thấy ý nghĩa, mục đích, sự thỏa mãn, bình an, sự tha thứ và sự sống trọn vẹn.

  • Đừng để ma quỷ cướp của bạn
    Chúa Giê-su đối lập với ‘kẻ trộm’, chúng đến để ‘cướp, giết và hủy diệt’ (Giăng 10:10a). Ma quỷ muốn cướp đi sự bình an và tận hưởng cuộc sống của bạn. Đừng để chúng hả dạ.

  • Hãy yên tâm về tình yêu của Chúa dành cho bạn
    Chúa Giê-su cũng so sánh người chăn hiền lành với ‘tay làm thuê’, khi bị sói tấn công đàn chiên, anh ta bỏ chạy vì không quan tâm đến đàn chiên (c.12-13).

Mặt khác, người mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên (cc.11,15). Điều này hoàn toàn tự nguyện: ‘Sở dĩ Cha yêu thương Ta, là vì Ta hi sinh mạng sống mình để được nhận lại. Không ai cất mạng sống Ta đi được, nhưng Ta tự nguyện hi sinh.’ (c.17–18). Nếu bạn từng nghi ngờ liệu Chúa có yêu bạn, bạn chỉ cần nhìn lên thập tự giá: Chúa Giê-su đã hy sinh mạng sống vì bạn.

Chúa Giê-su đến hiến mạng sống mình trên thập giá để cất đi mọi chướng ngại ngăn cản bạn nhận biết và hiệp thông với Thiên Chúa là Cha.

  • Học cách lắng nghe tiếng Ngài
    Bản năng của chiên là nhận biết tiếng người chăn. ‘chiên nghe tiếng người chăn. Người chăn gọi tên chiên mình và dẫn ra ngoài. Khi đã đem chiên ra hết thì người chăn đi trước, chiên theo sau vì chiên quen tiếng người chăn’ (c.3–4).

Càng hiểu về Chúa Giê-su, bạn càng nhận ra đó là tiếng nói của Ngài chứ không phải giọng nói dối của sói.

  • Biết rằng bạn có cuộc sống vĩnh cửu Người mà bạn biết không chỉ chết vì bạn mà còn sống lại từ cõi chết vì bạn. Ngài có quyền lấy lại mạng sống mình: ‘Ta có quyền hi sinh mạng sống và có quyền lấy lại’ (c. 18b). Ngài ban cho bạn sự sống đời đời.

Sau đó, Chúa Giê-su định nghĩa sự sống đời đời như thế này: ‘Bây giờ đây là sự sống đời đời: nhận biết Cha là Đức Chúa Trời duy nhất và chân thật, cùng Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng Cha đã sai đến’ (17:3).

Cầu nguyện

Lạy Chúa, cảm ơn Ngài đã yêu con nhiều đến nỗi đã hy sinh mạng sống vì con. Cảm ơn vì Ngài đã cho con cuộc sống và cuộc sống trong sự sung mãn và trọn vẹn.

Cựu Ước

Ru-tơ 3:1-4:22

Ru-tơ trong sân đập lúa

1 Na-ô-mi, mẹ chồng của Ru-tơ, nói với nàng: “Con gái của mẹ, mẹ phải lo cho con một chỗ an thân để con được hạnh phúc. 2 Bô-ô, người có các tớ gái mà con đã đi theo mót lúa, chẳng phải là bà con của chúng ta sao? Tối nay ông ấy sẽ đi sảy lúa mạch ở sân đập lúa. 3 Vậy con hãy tắm rửa, xức dầu thơm và mặc quần áo tốt nhất rồi đi xuống sân đập lúa, nhưng đừng để ông ấy thấy cho đến khi ông ấy ăn uống xong. 4 Khi ông ấy đi ngủ, hãy để ý xem ông nằm nơi nào rồi đến giở mền dưới chân ông và nằm xuống. Chính ông sẽ nói điều gì con phải làm.”

5 Nàng thưa rằng: “Con sẽ làm theo mọi điều mẹ dặn.” 6 Vậy nàng đi xuống sân đập lúa và làm theo mọi điều mẹ chồng mình đã dặn.

7 Khi ăn uống xong, trong lòng khoan khoái, Bô-ô đến nằm bên đống lúa mạch. Ru-tơ đi nhè nhẹ đến giở mền dưới chân ông ấy và nằm xuống. 8 Nửa đêm, Bô-ô giật mình, trở giấc thì thấy một phụ nữ nằm dưới chân mình.

9 Bô-ô hỏi: “Cô là ai?”

Nàng đáp: “Con là Ru-tơ, tớ gái ông. Xin ông đắp mền trên tớ gái ông vì ông có quyền chuộc sản nghiệp con.”

10 Ông trả lời: “Nầy con gái ta, nguyện Đức Giê-hô-va ban phước cho con! Việc hiếu nghĩa của con làm lần nầy còn lớn hơn lần trước vì con chẳng chạy theo những gã trai trẻ, vô luận nghèo hay giàu. 11 Vậy bây giờ, hỡi con gái ta, đừng sợ gì cả, ta sẽ làm cho con mọi điều con xin, vì cả dân chúng trong thành ta đều biết con là một người phụ nữ đức hạnh. 12 Thật ta có quyền chuộc sản nghiệp con lại, nhưng có một người bà con khác gần hơn ta. 13 Hãy ở lại đêm nay. Sáng mai, nếu ông ấy muốn chuộc sản nghiệp con lại thì tốt; hãy để ông ấy làm việc đó. Nhưng nếu ông ấy không muốn chuộc sản nghiệp con lại thì ta chỉ Đức Giê-hô-va hằng sống mà thề rằng, ta chắc chắn sẽ chuộc sản nghiệp con lại! Hãy ngủ lại đây cho đến sáng.”

14 Vậy nàng ngủ dưới chân của ông cho đến sáng rồi dậy sớm trước khi hai người ta có thể nhận ra nhau, vì Bô-ô nghĩ thầm rằng: “Đừng cho người ta biết có một phụ nữ vào sân đập lúa.”

15 Ông cũng nói: “Hãy đưa vạt áo choàng của con đang mặc và nắm lại cho chắc.” Nàng đưa vạt áo, ông đong và trút cho nàng sáu đấu lúa mạch. Sau đó, Bô-ô trở vào thành.

16 Ru-tơ trở về nhà mẹ chồng mình. Bà hỏi: “Việc thế nào rồi, con của mẹ?”

Ru-tơ thuật cho bà nghe mọi điều Bô-ô đã làm cho mình. 17 Nàng nói: “Ông ấy có cho con hai mươi ký lúa mạch nầy và nói rằng: ‘Con chớ trở về cùng mẹ chồng với hai tay không’”

18 Na-ô-mi nói: “Nầy con của mẹ, hãy đợi xem sự việc diễn tiến thế nào, vì ông ấy không chịu ngồi yên đâu nhưng sẽ giải quyết việc nầy ngay hôm nay”

Bô-ô cưới Ru-tơ

4 1 Bô-ô đi đến cổng thành và ngồi tại đó. Bấy giờ, người có quyền chuộc sản nghiệp mà Bô-ô đã nói cũng vừa đi ngang qua. Bô-ô nói: “Mời anh ghé lại ngồi đây.”

2 Kế đến, Bô-ô chọn mười người trong các trưởng lão của thành và nói: “Xin mời quý ông ngồi đây.” Các trưởng lão đều ngồi xuống. 3 Bô-ô nói với người có quyền chuộc sản nghiệp: “Na-ô-mi từ Mô-áp về có rao bán miếng đất của Ê-li-mê-léc là anh chúng ta. 4 Tôi thấy cần báo cho anh biết việc đó. Vậy trước sự chứng kiến của những người ngồi đây và trước mặt các trưởng lão của dân chúng, xin anh hãy mua sản nghiệp đó. Nếu anh muốn chuộc sản nghiệp đó lại thì hãy chuộc đi; nếu không thì hãy nói ra cho tôi biết. Vì trước anh không ai có quyền chuộc lại và sau anh, quyền nầy sẽ thuộc về tôi.”

Người ấy đáp: “Tôi sẽ chuộc.”

5 Nhưng Bô-ô nói tiếp: “Khi mua ruộng từ tay Na-ô-mi thì anh cũng thay cho Ru-tơ người Mô-áp, vợ của người quá cố, mà mua ruộng ấy để lưu danh người quá cố trên sản nghiệp người ấy.”

6 Người có quyền chuộc sản nghiệp trả lời: “Nếu vậy thì tôi không thể chuộc được, sợ làm hại đến sản nghiệp của tôi. Xin anh hãy thay tôi chuộc sản nghiệp ấy vì tôi không thể chuộc được.”

7 Ngày xưa, trong Y-sơ-ra-ên có tục liên quan đến việc chuộc lại hay trao đổi nhau như sau: Để xác nhận một giao dịch, người nầy phải cởi giày mình mà trao cho người kia. Đó là cách xác chứng trong dân Y-sơ-ra-ên.

8 Vậy người có quyền chuộc sản nghiệp nói với Bô-ô rằng: “Xin anh chuộc sản nghiệp đó.” Rồi người ấy cởi giày mình ra.

9 Bấy giờ, Bô-ô nói với các trưởng lão và cả dân chúng: “Hôm nay, các ông làm chứng rằng tôi mua từ tay Na-ô-mi mọi tài sản thuộc về Ê-li-mê-léc, và tất cả những gì thuộc về Ki-li-ôn và Mạc-lôn 10 và cũng lấy Ru-tơ người Mô-áp, vợ của Mạc-lôn, làm vợ, để lưu danh người quá cố trên sản nghiệp người ấy, hầu cho danh người quá cố không bị mai một giữa anh em và quê hương mình. Hôm nay quý ông làm chứng về điều đó.”

11 Tất cả mọi người ở cổng thành và các trưởng lão đều nói: “Chúng tôi làm chứng về điều đó. Nguyện Đức Giê-hô-va làm cho người phụ nữ vào nhà anh giống như Ra-chên và Lê-a là hai người đã xây dựng nhà Y-sơ-ra-ên! Chúc cho anh được thịnh vượng ở Ép-ra-ta và được nổi danh ở Bết-lê-hem! 12 Nguyện dòng dõi mà Đức Giê-hô-va ban cho anh qua thiếu phụ nầy sẽ làm cho nhà anh giống như nhà của Pha-rết mà Tha-ma đã sinh cho Giu-đa vậy!”

13 Như vậy, Bô-ô cưới Ru-tơ làm vợ. Khi họ ăn ở với nhau, Đức Giê-hô-va cho nàng thụ thai và sinh một con trai. 14 Các phụ nữ trong thành nói với Na-ô-mi: “Chúc tụng Đức Giê-hô-va! Hôm nay Ngài chẳng từ chối ban cho bà một cháu trai, có quyền chuộc lại sản nghiệp. Nguyện cháu được nổi danh trong Y-sơ-ra-ên! 15 Đứa bé ấy sẽ an ủi lòng bà, nuôi dưỡng bà lúc về già, vì con dâu bà đã sinh nó cho bà. Con dâu bà còn quý hơn bảy con trai.”

16 Na-ô-mi bồng đứa trẻ để vào lòng mình và chăm sóc nó. 17 Các phụ nữ láng giềng đặt tên cho nó là Ô-bết và nói: “Một bé trai đã sinh cho Na-ô-mi.” Ô-bết là cha của Gie-sê, ông nội của Đa-vít.

18 Đây là dòng dõi của Pha-rết:

Pha-rết sinh Hết-rôn.

19 Hết-rôn sinh Ram;

Ram sinh A-mi-na-đáp;

20 A-mi-na-đáp sinh Na-ha-sôn;

Na-ha-sôn sinh Sanh-ma;

21 Sanh-ma sinh Bô-ô;

Bô-ô sinh Ô-bết;

22 Ô-bết sinh Gie-sê và

Gie-sê sinh Đa-vít.

Bình luận

Tôn vinh Chúa trong mọi hoàn cảnh

Đức Chúa Trời tôn trọng những ai tôn vinh Ngài và làm điều đúng – ngay cả khi phải trả giá đắt để làm điều đó và thậm chí phải trải qua những thử thách và khó khăn trong cuộc sống. Chúng ta thấy cách mỗi nhân vật chính tôn vinh Chúa: Na-ô-mi (1:8-9), Ru-tơ (c.17 và tiếp theo), và Bô-ô (2:4,12; 3:10,13; 4:11). Họ là những hình mẫu tuyệt vời để chúng ta noi theo.

Sách Ru-tơ bắt đầu với việc Na-ô-mi thất vọng về lòng nhân từ của Đức Chúa Trời (1:20-21). Sau đó, bà kinh nghiệm nhiều người xung quanh bà thể hiện lòng tốt của con người. Bà trải nghiệm điều đó nơi hai cô con dâu, Ru-tơ và Ọt-pa (c.8), và cách Bô-ô đối xử với Ru-tơ. Cuối cùng, bà tuyên bố: “Ngài không ngừng tỏ lòng nhân từ với kẻ sống và kẻ chết” (2:20).

Ru-tơ vâng lời mẹ chồng đến từng chi tiết. Mối quan tâm của Na-ô-mi hoàn toàn là vì sức khỏe của Ru-tơ. Bô-ô là người tự chủ, hào phóng và đáng kính. Đời sống của Bô-ô rõ ràng là lấy Đức Chúa Trời làm trung tâm. Phản ứng tức thì của ông khi tỉnh dậy và nhìn thấy Ru-tơ là “nguyện Đức Giê-hô-va ban phước cho con” và “Đức Giê-hô-va hằng sống” (3:10,13).

Hôm qua, chúng ta đã thấy cách Ru-tơ tôn vinh Chúa và làm điều đúng khi trung thành với mẹ chồng. Ngày nay, chúng ta thấy rõ ràng Bô-ô muốn cưới Ru-tơ, và cảm thấy đó là điều đúng đắn, nhưng không đơn giản tiến tới như lẽ ra ông có thể làm trên cơ sở mục đích biện minh cho cách thức. Ông ấy hoàn toàn ngay thẳng trong cách tiếp cận vấn đề – tuân thủ các nghi thức và truyền thống của nền văn hóa.

Bô-ô không vội vã kết hôn. Ông ấy đã đi đúng quy trình. Nói theo con người, ông ấy đang mạo hiểm rất nhiều và có thể đã mất Ru-tơ. Nhưng ông tin rằng Chúa đang tể trị.

Chúa đã tôn vinh điều này một cách lạ lùng và tuyệt vời. Bô-ô và Ru-tơ cưới nhau và sinh ra ông nội của Vua Đa-vít (4:17). Thật vậy, Ru Tơ, người tớ gái, đã trở thành tổ phụ của Chúa Giê-su Christ (Ma Thi Ơ 1:5–6). Theo một nghĩa nào đó, Chúa Giê-su là người bà con cứu chuộc của chúng ta (Ru-tơ 4:14). Ngài gọi chúng ta là anh chị em của Ngài, hiểu những khó khăn của chúng ta và hành động để cứu chuộc chúng ta (Hê-bơ-rơ 2:11–12, 17–18).

Chúng ta thấy lòng nhân từ của Đức Chúa Trời xuyên suốt sách Ru-tơ. Đằng sau lòng nhân từ của Ru-tơ, Na-ô-mi và Bô-ô là lòng nhân từ của Đức Chúa Trời.

Cầu nguyện

Thưa Cha, cảm ơn Cha vì lòng tốt tuyệt vời của Cha đối với con. Cảm ơn Ngài đã cứu chuộc con. Xin ban cho con lòng can đảm để luôn tôn vinh Chúa và tìm cách làm điều đúng ngay cả khi điều đó khó khăn.

Pippa chia sẻ

Giăng 10:10 là một trong những câu yêu thích của tôi: ‘Ta đã đến để chiên được sự sống và sự sống sung mãn’

Kinh thánh có sức mạnh lớn lao. Cách đây nhiều năm, nhờ một người nào đó cho tôi xem câu này mà lần đầu tiên tôi bắt gặp mối quan hệ với Chúa Giê-su Christ.

reader

App

Tải xuống ứng dụng Kinh Thánh Trong Một Năm dành cho thiết bị iOS hoặc Android và đọc theo mỗi ngày.

reader

Email

Đăng ký ngay bây giờ để nhận Kinh thánh trong một năm trong hộp thư đến của bạn mỗi sáng. Bạn sẽ nhận được một email mỗi ngày.

Sign up now
reader

Website

Bắt đầu đọc sự tận tâm của ngày hôm nay ngay tại đây trên trang web BiOY.

Read now
reader

Book

Kinh thánh trong một năm bình luận có sẵn như là một cuốn sách.

Tham khảo

J. I. Packer, Biết Chúa, (Hodder & Stoughton, 1973) p.31.

Trừ khi có quy định khác, các trích dẫn Kinh thánh được lấy từ Kinh thánh, Phiên bản quốc tế mới được Anh hóa, Bản quyền © 1979, 1984, 2011 Biblica, trước đây là Hiệp hội Kinh thánh Quốc tế. Được sử dụng dưới sự cho phép của Hodder & Stoughton Publishers, một công ty của Hachette UK. Đã đăng ký Bản quyền. 'NIV' là nhãn hiệu đã đăng ký của Biblica. Nhãn hiệu Vương quốc Anh số 1448790.

Thánh Kinh được đánh dấu (MSG) lấy từ The Message. Bản quyền © 1993, 1994, 1995, 1996, 2000, 2001, 2002. Được sử dụng dưới sự cho phép của NavPress Publishing Group.

This website stores data such as cookies to enable necessary site functionality and analytics. Find out more