Thử thách và Cám dỗ
Giới thiệu
John Wimber, mục sư người Mỹ và là người tiên phong của phong trào Vườn nho, có ảnh hưởng rất lớn đến các hội thánh trên khắp thế giới. Ông qua đời ở tuổi sáu mươi ba. Cuộc sống vô cùng khó khăn đối với ông.
Ông ấy đã phải chịu rất nhiều lời chỉ trích. Tôi nhớ có lần ông ấy nói với tôi, 'Tiếng tăm chỉ vui trong một thời gian ngắn, nhưng sau đó chỉ là rắc rối'. Nhưng có lẽ điều làm ông đau đớn nhất là ba người đàn ông gần gũi với ông nhất, những người mà ông yêu thương và đối xử như con trai của mình, tất cả đều rơi vào cám dỗ và suy đồi đạo đức.
Chúa đã sử dụng John Wimber theo những cách phi thường, nhưng ông và đội của mình phải đối mặt với nhiều thử thách và cám dỗ. Đây là cuộc sống, và Kinh thánh không ngây thơ chút nào về điều đó. Thông thường, khi chúng ta thoát khỏi một trận chiến, thì sẽ có một trận chiến khác sắp đến gần. Đây là thử thách của cuộc sống.
Thi thiên 71:1-8
Lời cầu nguyện của người cao tuổi
1 Lạy Đức Giê-hô-va, con nương náu mình nơi Ngài;
Xin đừng bao giờ để con bị hổ thẹn.
2 Xin lấy đức công chính của Chúa mà cứu chuộc con và giải thoát con;
Xin nghiêng tai qua con và cứu con.
3 Xin Chúa làm vầng đá để con nương náu
Là nơi để con được vào đó luôn luôn;
Xin Chúa ra lệnh cứu con
Vì Chúa là vầng đá và là đồn lũy của con.
4 Lạy Đức Chúa Trời của con, xin cứu con khỏi tay kẻ độc ác,
Và khỏi tay kẻ bất chính cùng người hung bạo.
5 Vì, lạy Chúa là Đức Giê-hô-va, Ngài là niềm hi vọng
Và là sự tin cậy của con từ thuở thanh xuân.
6 Con nương tựa nơi Chúa từ lúc mới ra đời;
Chính Chúa đem con ra khỏi lòng mẹ.
Con sẽ ca ngợi Chúa luôn luôn.
7 Con trở nên điềm gở cho nhiều người;
Nhưng Chúa là nơi nương náu vững bền của con.
8 Miệng con đầy lời ngợi ca Chúa,
Hằng ngày con luôn tôn vinh Ngài.
Bình luận
Hãy tin cậy nơi Chúa
Thi thiên này ám chỉ nhiều sự khó khăn và chống đối. Tuy nhiên, qua tất cả, tác giả nói: ‘Con nương tựa nơi Chúa từ lúc mới ra đời’ (c.6). Trong bài thi thiên này, chúng ta thấy ba khía cạnh chính của việc tin cậy nơi Đức Chúa Trời:
1. Cầu nguyện
Đây là một lời cầu nguyện mà bạn có thể cầu nguyện: “Lạy Đức Giê-hô-va, con nương náu mình nơi Ngài; Xin nghiêng tai qua con và cứu con.” (c.1–2, MSG).
2. Kiên trì
Một khi bạn đã kêu cứu và trao gánh nặng của mình cho Chúa, bước tiếp theo là hi vọng và tin cậy(c.5): 'Vì, lạy Chúa là Đức Giê-hô-va, Ngài là niềm hi vọng...Và là sự tin cậy của con từ thuở thanh xuân. Con nương tựa nơi Chúa từ lúc mới ra đời' (c.5–6, MSG).
3. Ngợi khen
Bạn có thể ngợi khen Chúa trước, trong và sau những trận chiến mà bạn đối mặt: ‘Con sẽ ca ngợi Chúa luôn luôn’ (c.6, MSG).
Cầu nguyện
Lạy Chúa, cảm ơn Chúa vì con có thể dựa vào Ngài khi nhìn về tương lai và những trận chiến phía trước.
Công vụ 4:1-22
Phi-e-rơ và Giăng trước Hội đồng Công luận
1 Trong khi Phi-e-rơ và Giăng đang nói với dân chúng thì các thầy tế lễ, viên quản lý đền thờ, và những người Sa-đu-sê kéo đến. 2 Họ bực tức vì hai ông dạy dỗ dân chúng và công bố rằng trong Đức Chúa Jêsus có sự sống lại từ cõi chết. 3 Họ bắt hai ông giam vào ngục cho đến ngày hôm sau, vì lúc ấy trời đã tối. 4 Mặc dù vậy, có nhiều người trong số họ đã nghe lời Chúa thì tin, và số nam tín hữu lên đến năm nghìn.
5 Ngày hôm sau, các nhà lãnh đạo, các trưởng lão, các thầy thông giáo họp tại Giê-ru-sa-lem, 6 cùng với An-ne là thầy tế lễ thượng phẩm, Cai-phe, Giăng, A-léc-xan-đơ và tất cả những người thuộc về gia đình thầy tế lễ thượng phẩm. 7 Họ bắt hai ông đến đứng giữa họ và tra hỏi: “Nhờ quyền năng nào hay là nhân danh ai mà các anh làm điều nầy?”
8 Bấy giờ Phi-e-rơ, được đầy dẫy Đức Thánh Linh, nói rằng: “Thưa các vị lãnh đạo và quý trưởng lão! 9 Nếu hôm nay chúng tôi bị tra hỏi vì đã làm phước cho một người tàn tật, và bằng cách nào người nầy được chữa lành, 10 thì xin tất cả quý vị và toàn dân Y-sơ-ra-ên hãy biết rằng nhờ danh của Đức Chúa Jêsus Christ người Na-xa-rét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh trên thập tự giá, và Đức Chúa Trời đã khiến sống lại từ cõi chết; chính nhờ danh ấy mà người nầy được lành mạnh và hiện đứng trước mặt quý vị đây.
11 Ngài là hòn đá bị các ông là những thợ xây nhà loại ra,
Nhưng lại trở nên hòn đá góc nhà.
12 Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác, vì ở dưới trời chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta nhờ đó mà được cứu.”
13 Khi thấy sự dạn dĩ của Phi-e-rơ và Giăng, biết rõ hai ông là những người tầm thường, ít học, thì họ đều kinh ngạc và nhận ra rằng hai ông đã từng ở với Đức Chúa Jêsus. 14 Nhưng vì thấy người què được chữa lành đứng bên cạnh hai ông, nên họ không có lời gì để phản bác được. 15 Sau khi bảo hai ông rời khỏi Hội đồng, họ bàn luận với nhau 16 rằng: “Chúng ta phải làm gì với mấy người nầy? Vì mọi người ở Giê-ru-sa-lem đều biết họ thật đã làm một phép lạ hiển nhiên và chúng ta không thể chối cãi được. 17 Tuy nhiên, để việc đó không đồn ra trong dân chúng thêm nữa, chúng ta hãy cảnh cáo họ không được lấy danh đó giảng dạy cho bất cứ ai nữa.”
18 Vậy, họ gọi hai ông vào và cấm nhân danh Đức Chúa Jêsus mà nói hay dạy nữa. 19 Nhưng Phi-e-rơ và Giăng trả lời: “Xin các ông hãy suy xét, trước mặt Đức Chúa Trời có nên vâng lời các ông hơn là vâng lời Đức Chúa Trời chăng? 20 Vì chúng tôi không thể không nói về những điều mình đã thấy và nghe.”
21 Sau khi tiếp tục hăm dọa, họ thả hai ông ra, không tìm được cách nào để trừng phạt hai ông vì sợ dân chúng, bởi tất cả đều tôn vinh Đức Chúa Trời về việc đã xảy ra. 22 Người đàn ông đã được phép lạ chữa lành đó đã ngoài bốn mươi tuổi.
Bình luận
Hãy can đảm trong Chúa Giê-su
Đạo Đấng Christ chân chính chắc chắn sẽ dẫn đến sự chống đối và thử thách dưới hình thức này hay hình thức khác. Tại đây, các môn đệ đã bị bỏ tù và bị xét xử theo đúng nghĩa đen. Thực tế, họ bị buộc tội là Cơ đốc nhân (mặc dù thời đó từ Cơ Đốc Nhân vẫn chưa xuất hiện). Không có một giai đoạn nào trong lịch sử hội thánh mà các Cơ đốc nhân không bị xét xử vì sự vi phạm này ở đâu đó trên thế giới.
Không có gì phải bàn cãi về người đàn ông đã được chữa lành. Trong các sách Phúc âm, chính Chúa Giê-su làm phép lạ; trong Công vụ, những người bình thường nhân danh Ngài làm phép lạ. Khi được hỏi: “Nhờ quyền năng nào hay là nhân danh ai mà các anh làm điều nầy?” (c.7), được đầy dẫy Đức Thánh Linh, Phi-e-rơ đáp: “nhờ danh của Đức Chúa Jêsus Christ người Na-xa-rét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh trên thập tự giá, và Đức Chúa Trời đã khiến sống lại từ cõi chết.' (c.10). Ngày nay, bạn có thể cầu nguyện lời cầu nguyện mạnh mẽ này.
Phi-e-rơ đã cả gan nói với các thẩm phán rằng họ phạm tội đóng đinh Đấng Cứu Thế của thế gian. Họ đã khước từ và đóng đinh Chúa Giê-su. Phi-e-rơ đã từng sợ hãi khi thừa nhận với một nữ người hầu rằng ông biết Chúa Giê-su. Bây giờ, ông ấy đã thay đổi. Ông ta công khai tuyên bố về Chúa Giê-su và sự sống lại, tại nơi Chúa Giê-su bị xét xử và cách nơi Người bị đóng đinh 500 thước.
Điều quan trọng là Phi-e-rơ đã gặp Chúa Giê-su phục sinh và được “đầy Đức Thánh Linh” (c.8). Bây giờ ông đã biết Chúa Giê-su đến để làm gì và nhờ Đức Thánh Linh, Chúa Giê-su ở cùng và giúp đỡ ông.
Phi-e-rơ tiếp tục, ‘Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác, vì ở dưới trời chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta nhờ đó mà được cứu’ (c.12).
Không có gì ngạc nhiên khi họ có phản ứng thế này. ‘Khi thấy sự dạn dĩ của Phi-e-rơ và Giăng, biết rõ hai ông là những người tầm thường, ít học, thì họ đều kinh ngạc và nhận ra rằng hai ông đã từng ở với Đức Chúa Jêsus’ (c.13).
Phi-e-rơ và Giăng có thể không được học hành chính quy nhiều, nhưng họ đã từng “Đi học với Chúa Giê-su”. Họ là môn đệ của ông. Họ đã từng đến 'Cao Đẳng Lời Chúa'. Và bây giờ họ đang học tại 'Đại học của Chúa Thánh Linh'. Nhiều người được Đức Chúa Trời trọng dụng lại không được học hành chính quy.
Phi-e-rơ và Giăng bị đe dọa và không được nói về Chúa Giê-su. Nhưng họ đáp: ‘Vì chúng tôi không thể không nói về những điều mình đã thấy và nghe’ (c.20).
Khi họ đối mặt với các thẩm phán, họ đã được giúp đỡ rất nhiều bởi thực tế là mọi người đều có thể thấy một phép màu đáng kinh ngạc đã diễn ra như thế nào. Người đàn ông bốn mươi tuổi được chữa lành đang đứng đó như một bằng chứng sống về quyền năng của Chúa Giê-su (c.14-21).
Cầu nguyện
Lạy Chúa, xin đổ đầy Thánh Linh của Chúa cho con và ban cho con lòng can đảm như Phi-e-rơ và Giăng để con có thể tiếp tục truyền rao danh Ngài, cho dù phải trá giá nào và có bất kì sự chống đối nào. Nguyện chúng con có thể nhìn thấy những điều kỳ diệu lớn lao như những điều mà Ngài đã làm qua những người môn đệ đầu tiên của Ngài.
2 Sa-mu-ên 11:1-12:31
Chiến trận cùng dân Am-môn
1 Qua năm mới, khi các vua thường ra tranh chiến, Đa-vít sai Giô-áp cùng các tôi tớ mình và cả đạo binh Y-sơ-ra-ên đánh giặc; chúng cướp phá xứ dân Am-môn và vây thành Ráp-ba. Nhưng vua Đa-vít ở lại Giê-ru-sa-lem. Đa-vít phạm tội tà dâm và tội sát nhân
2 Một buổi chiều kia, Đa-vít chỗi dậy khỏi giường mình, đi dạo chơi trên nóc đền vua, bèn thấy một người nữ đương tắm; người nữ ấy rất là lịch sự. 3 Đa-vít sai hỏi người nữ ấy là ai, thì người ta thưa rằng: Ấy là Bát-sê-ba, con gái của Ê-li-am, vợ của U-ri, người Hê-tít. 4 Đa-vít sai người đem nàng đến. Nàng đến nhà vua và vua ngủ với nàng. Sau khi nàng làm cho sạch sự ô uế mình, bèn trở về nhà. 5 Người nữ nầy thọ thai, sai người tâu cùng Đa-vít rằng: Tôi có thai.
6 Đa-vít bèn truyền lịnh cho Giô-áp rằng: Hãy sai U-ri, người Hê-tít, đến cùng ta. Vậy, Giô-áp sai U-ri đến cùng Đa-vít. 7 U-ri đến, Đa-vít hỏi thăm về Giô-áp và đạo binh có bình an chăng, cùng chiến trận ra thể nào. 8 Đoạn, vua nói cùng U-ri rằng: Hãy đi xuống nhà ngươi và rửa chân đi. Vậy, U-ri đi ra khỏi đền vua, có người đem theo người một của ăn nhà vua. 9 Nhưng U-ri không về nhà mình, ngủ tại cửa đền vua cùng các tôi tớ vua.
10 Người ta thuật điều đó cho Đa-vít và nói rằng: U-ri không có đi xuống nhà người. Đa-vít hỏi U-ri rằng: Chớ thì ngươi chẳng đi đường trở về sao? Cớ sao không đi xuống nhà ngươi? 11 U-ri thưa cùng Đa-vít rằng: Hòm giao ước, Y-sơ-ra-ên, và Giu-đa, vẫn ở dưới trại, Giô-áp, là chúa tôi, luôn với các tôi tớ chúa tôi đương hạ trại nơi đồng trống, còn tôi lại vào nhà mình đặng ăn, uống, và ngủ cùng vợ mình sao? Tôi chỉ mạng sống và linh hồn của vua mà thề rằng, tôi chẳng biết làm một sự như vậy!
12 Đa-vít nói cùng U-ri rằng: Hãy ở lại đây ngày nay, rồi mai ta sẽ sai ngươi đi. Vậy, U-ri ở lại tại Giê-ru-sa-lem ngày ấy và ngày sau. 13 Đoạn, Đa-vít vời người ăn uống tại trước mặt mình, và làm cho người say; nhưng chiều tối, U-ri đi ra ngủ trên giường mình với các tôi tớ của người, chớ không có đi xuống nhà mình.
14 Sáng ngày mai, Đa-vít viết một cái thơ cho Giô-áp, và gởi nơi tay U-ri. 15 Người viết như vầy: Hãy đặt U-ri tại hàng đầu, nơi hiểm nguy hơn hết của chiến trận, rồi hãy rút ra xa người, để người bị đánh và chết đi.
16 Vậy, khi Giô-áp vây thành, bèn đặt U-ri tại chỗ đã biết có lính mạnh bạo của thù nghịch gìn giữ. 17 Người trong thành kéo ra đánh Giô-áp, có mấy người trong bọn tôi tớ Đa-vít ngã chết. U-ri, người Hê-tít, cũng chết.
18 Giô-áp bèn sai sứ giả đến cùng Đa-vít đặng thuật cho người biết đầu đuôi của sự chinh chiến. 19 Và người truyền lịnh cho sứ giả rằng: Khi ngươi đã thuật xong cho vua mọi điều đã xảy ra nơi chiến trận, 20 nếu vua nổi giận nói cùng ngươi rằng: Cớ sao các ngươi đi tới gần quá đặng hãm thành vậy? Các ngươi há chẳng biết rằng người ta ở trên chót vách thành bắn tên xuống sao? 21 Xưa ai giết A-bi-mê-léc, con trai của Giê-rút-bê-sết? Há chẳng phải một người nữ ở trên chót vách thành ném một thớt cối xuống trên người làm cho người chết tại Tê-bết sao? Vì sao các ngươi đến gần vách thành như vậy? --- thì bấy giờ ngươi sẽ tiếp rằng: U-ri, kẻ tôi tớ vua, người Hê-tít, cũng chết nữa.
22 Như vậy, sứ giả đi; khi người đến nơi, thuật cho Đa-vít biết mọi điều Giô-áp đã dặn người. 23 Sứ giả tâu cùng Đa-vít rằng: Ban đầu những quân đó mạnh hơn chúng tôi, kéo ra đến ngoài đồng; nhưng chúng tôi đánh đuổi chúng nó đến cửa thành. 24 Các lính cầm cung ở trên vách thành có bắn những tôi tớ vua, có vài người bị chết; U-ri, người Hê-tít, là tôi tớ vua, cũng chết nữa.
25 Đa-vít đáp cùng sứ giả rằng: Ngươi hãy nói cùng Giô-áp: Chớ lấy làm cực lòng quá về điều đó; gươm, khi giết kẻ nầy, khi giết kẻ khác. Hãy ráng sức hãm thành và hủy diệt nó đi. Còn ngươi hãy giục người vững lòng bền chí.
26 Khi vợ U-ri hay rằng chồng mình đã thác, thì than khóc U-ri. 27 Khi đã mãn tang, Đa-vít sai vời nàng vào cung; nàng trở nên vợ người, sanh cho người một con trai. Nhưng điều Đa-vít đã làm đó không đẹp lòng Đức Giê-hô-va.
Na-than trách Đa-vít
1 Đức Giê-hô-va sai Na-than đến cùng Đa-vít. Vậy, Na-than đến cùng người mà rằng: Trong một thành kia có hai người, người nầy giàu, còn người kia nghèo. 2 Người giàu có chiên bò rất nhiều; 3 nhưng người nghèo, nếu chẳng kể một con chiên cái nhỏ mà người đã mua, thì chẳng có gì hết. Người nuôi nó; nó cùng lớn lên với con cái người tại nhà người, ăn đồ người ăn, uống đồ người uống, và ngủ trên lòng người; nó như một con gái của người vậy.
4 Vả, có người khách đến người giàu; người giàu tiếc không muốn đụng đến chiên bò của mình đặng dọn một bữa ăn cho người khách đã đến, bèn bắt con chiên con của người nghèo và dọn cho kẻ khách đã đến thăm mình.
5 Đa-vít bèn nổi giận lắm cùng người ấy, và nói cùng Na-than rằng: Ta chỉ Đức Giê-hô-va hằng sống mà thề, người đã phạm điều ấy thật đáng chết! 6 Hắn phải thường bốn lần giá chiên con, vì đã làm như vậy, và vì không có lòng thương xót.
7 Bấy giờ, Na-than nói cùng Đa-vít rằng: Vua là người đó! Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên có phán như vầy: Ta đã xức dầu lập ngươi làm vua Y-sơ-ra-ên, ta đã giải cứu ngươi khỏi tay Sau-lơ. 8 Ta cũng ban cho ngươi nhà của chủ ngươi, trao vào tay ngươi các vợ của chủ ngươi, lập ngươi làm vua của nhà Y-sơ-ra-ên và Giu-đa, và nếu điều đó không đủ, ắt ta sẽ thêm cho ơn khác nữa. 9 Cớ sao ngươi đã khinh bỉ lời của Đức Giê-hô-va, mà làm điều không đẹp lòng Ngài? Ngươi đã dùng gươm giết U-ri, người Hê-tít, lấy vợ nó làm vợ ngươi, còn nó thì ngươi đã giết bởi gươm của dân Am-môn. 10 Nên bây giờ, gươm chẳng hề thôi hủy hoại nhà ngươi, bởi vì ngươi đã khinh ta, cướp vợ U-ri, người Hê-tít, đặng nàng làm vợ ngươi.
11 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ khiến từ nhà ngươi nổi lên những tai họa giáng trên ngươi; ta sẽ bắt các vợ ngươi tại trước mắt ngươi trao cho một người lân cận ngươi, nó sẽ làm nhục chúng nó tại nơi bạch nhựt. 12 Vì ngươi đã làm sự kia cách kín nhiệm, nhưng ta sẽ làm việc nầy trước mặt cả Y-sơ-ra-ên và tại nơi bạch nhựt.
Đa-vít ăn năn tội. – Con của Bát-Sê-ba chết
13 Đa-vít bèn nói cùng Na-than rằng: Ta đã phạm tội cùng Đức Giê-hô-va. Na-than đáp cùng Đa-vít rằng: Đức Giê-hô-va cũng đã xóa tội vua; vua không chết đâu. 14 Nhưng vì việc nầy vua đã gây dịp cho những kẻ thù nghịch Đức Giê-hô-va nói phạm đến Ngài, nên con trai đã sanh cho ngươi hẳn sẽ chết.
15 Đoạn, Na-than trở về nhà mình.
Đức Giê-hô-va bèn đánh đứa trẻ mà vợ của U-ri đã sanh cho Đa-vít, và nó bị đau nặng lắm. 16 Đa-vít vì con cầu khẩn Đức Chúa Trời và kiêng ăn; đoạn, người trở vào nhà, trọn đêm nằm dưới đất. 17 Các trưởng lão trong nhà chỗi dậy đứng chung quanh người đặng đỡ người lên khỏi đất; nhưng người không khứng, và chẳng ăn với họ.
18 Ngày thứ bảy đứa trẻ chết. Các tôi tớ của Đa-vít ngại cho người biết đứa trẻ đã chết; vì họ nói rằng: Lúc đứa trẻ còn sống, chúng tôi có khuyên giải vua, vua không khứng nghe chúng tôi; vậy làm sao chúng tôi lại dám nói cùng vua rằng đứa trẻ đã chết? Có lẽ vua rủi ro!
19 Nhưng Đa-vít thấy những tôi tớ nói nhỏ nhỏ, hiểu rằng đứa trẻ đã chết, nên hỏi rằng: Có phải đứa trẻ đã chết chăng?
Họ thưa: Phải, đã chết rồi.
20 Bấy giờ, Đa-vít chờ dậy khỏi đất, tắm mình, xức dầu thơm, và thay quần áo; rồi người đi vào đền của Đức Giê-hô-va và thờ lạy. Đoạn, người trở về cung, truyền dọn vật thực cho mình, và người ăn.
21 Các tôi tớ hỏi người rằng: Vua làm chi vậy? Khi đứa trẻ nầy còn sống, vua kiêng ăn và khóc vì nó; và bấy giờ, nó đã chết, vua chờ dậy và ăn!
22 Vua đáp: Khi đứa trẻ còn sống, ta kiêng ăn và khóc lóc, vì ta nghĩ rằng: Nào ai biết; có lẽ Đức Giê-hô-va sẽ thương xót ta, và cho đứa trẻ được sống chăng. 23 Nhưng bây giờ nó đã chết, ta kiêng ăn làm chi? Ta có thế làm cho nó trở lại ư? Ta sẽ đi đến nó, nhưng nó không trở lại cùng ta. Sa-lô-môn sanh ra
24 Đa-vít an ủi Bát-Sê-ba, vợ mình, đến ngủ cùng nàng; nàng sanh một đứa trai, đặt tên là Sa-lô-môn. Đức Giê-hô-va yêu mến Sa-lô-môn, 25 nên Ngài sai đấng tiên tri Na-than đến đặt tên cho nó là Giê-đi-đia, vì Đức Giê-hô-va yêu mến nó.
Sự lấy thành Ráp-ba
26 Giô-áp đánh Ráp-ba của dân Am-môn, và hãm lấy đế đô. 27 Người sai sứ giả đến cùng Đa-vít mà nói rằng: Tôi có đánh Ráp-ba và hãm lấy thành ở mạn dưới rồi. 28 Bây giờ, vua hãy nhóm hiệp chiến sĩ còn lại, đến đóng trước thành và chiếm lấy nó, kẻo tôi hãm lấy nó thì công đó về tôi chăng.
29 Vậy, vua Đa-vít nhóm hiệp cả dân sự, kéo đến đánh Ráp-ba, vây và hãm lấy nó. 30 Người lột cái mão triều thiên của vua dân Am-môn đội trên đầu; mão đó cân nặng một ta-lâng vàng, có trang sức những bửu thạch; Đa-vít đặt nó ở trên đầu mình. Người cũng đoạt lấy rất nhiều của cải trong thành đem đi. 31 Người điệu dân sự ở thành ấy ra, bắt chúng phải làm công dịch bằng cưa, bừa sắt, rìu sắt, và lò gạch; người cũng đãi hết thảy thành của dân Am-môn như vậy. Đoạn, Đa-vít và cả dân sự đều trở về Giê-ru-sa-lem.
Bình luận
Hãy lo làm vui lòng Chúa
Trong nền văn hóa đương đại, những từ ‘Vua là người đó!’ (12:7) có thể là những lời ngưỡng mộ! Nhưng đây là một trong những từ ám ảnh nhất trong toàn bộ Kinh thánh. David đã bị phát hiện. Ông đã bị cám dỗ và sa vào tội lỗi. Ông ấy đã phạm tội trong kín giấu và nghĩ rằng ông đã thoát khỏi nó. Nhưng Chúa nhìn thấy mọi thứ. Một trong những cách diễn đạt nói giảm nói tránh nhất trong Kinh Thánh, cho chúng ta biết, “việc Đa-vít đã làm không đẹp lòng Đức Giê-hô-va” (11:27).
Chuyện đi quá xa từ khi nào?
Người ta thường cho rằng sai lầm đầu tiên của Đa-vít là ở lại Giê-ru-sa-lem (c.1). Nếu ông ấy ra ngoài chiến đấu cùng quân của mình, ông ấy sẽ ít bị cám dỗ hơn là ngồi ở nhà với quá ít việc phải làm. John Wimber thường nói, ‘Thật khó để ngồi yên và trở nên tốt.’ Chúng ta ít có khả năng rơi vào cám dỗ hơn khi chúng ta hoàn toàn bận rộn và ở đúng chỗ.
David dần trượt dốc. Ông nhìn thấy một người phụ nữ ‘xinh đẹp tuyệt vời’ đang tắm (c.2). Chưa có tội lỗi, chỉ có sự cám dỗ. Tuy nhiên, chắc hẳn ông ta đã sa vào những tư tưởng ngoại tình đầy dục vọng vì ông ta đã lập một kế hoạch, dụ cô ngủ với ông ta và phạm tội ghê gớm.
Mặc dù theo tiêu chuẩn vào thời của ông, điều đó chẳng là gì so với những gì các vị vua khác sẽ làm, nhưng sau đó ông đã lên kế hoạch che đậy nhưng không thành công. Cuối cùng, nó kết thúc bằng việc U-ri bị giết. Như thường xảy ra, một tội lại dẫn đến nhiều tội hơn – và sự giấu giếm còn tồi tệ hơn tội lỗi ban đầu.
Hẳn Đa-vít cảm thấy hoàn toàn tan nát trước những lời của Na-than: ‘Anh đúng là đàn ông! Đây là điều Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán: “Na-than nói cùng Đa-vít rằng: Vua là người đó! Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên có phán như vầy: Ta đã xức dầu lập ngươi làm vua Y-sơ-ra-ên, ta đã giải cứu ngươi khỏi tay Sau-lơ. Ta cũng ban cho ngươi nhà của chủ ngươi, trao vào tay ngươi các vợ của chủ ngươi, lập ngươi làm vua của nhà Y-sơ-ra-ên và Giu-đa, và nếu điều đó không đủ, ắt ta sẽ thêm cho ơn khác nữa. Cớ sao ngươi đã khinh bỉ lời của Đức Giê-hô-va, mà làm điều không đẹp lòng Ngài? Ngươi đã dùng gươm giết U-ri, người Hê-tít, lấy vợ nó làm vợ ngươi, còn nó thì ngươi đã giết bởi gươm của dân Am-môn.” (12:7-9). David không chỉ là người làm mọi thứ loạn lên, đáng nhẽ ông cũng phải là người hiểu chuyện gì đang xảy ra.
Thật đáng kinh ngạc, Đức Chúa Trời đã tha thứ cho Đa-vít tội lỗi kinh khủng này (c.13). Không có tội lỗi hay sai sót nào quá lớn đến mức Chúa không thể tha thứ, và không có hoàn cảnh nào mà ân điển của Chúa không thể chạm tới. Bất kể bạn đã làm gì, Chúa có thể tha thứ cho bạn.
Chìa khóa để nhận được sự tha thứ đó là thừa nhận tội lỗi của chúng ta và ăn năn về những gì chúng ta đã làm. Đây là điểm khác biệt lớn giữa Đa-vít (người được Đức Chúa Trời tha thứ khi ông phạm tội) và Sau-lơ (người không được Đức Chúa Trời tha thứ). Trong khi Sau-lơ cố gắng biện minh cho mình (xem 1 Sa-mu-ên 15), thì Đa-vít chỉ thú nhận mọi sự. Ông nói: ‘Ta đã phạm tội cùng Đức Giê-hô-va’ (2 Sa-mu-ên 12:13). Trên thực tế, ý ông là, 'Con thật lòng xin lỗi!'
Tuy nhiên, sự tha thứ không làm mất đi hậu quả của hành động tội lỗi đó. Đối với David, hậu quả là rất lớn. Hậu quả là đứa con trai sơ sinh của ông đã chết (c.13–14), và Đức Chúa Trời đã cảnh cáo ông rằng, vì những hành động hung bạo của ông, ‘gươm sẽ không bao giờ lìa khỏi nhà ngươi’ (c.10). Hậu quả của tội lỗi của Đa-vít là lâu dài.
Tuy nhiên, đây không phải là dấu chấm hết cho Da-vít. Chúa đã không bỏ rơi ông. Mặc dù con trai ông đã chết, nhưng vẫn còn hy vọng. Một ngày nào đó họ sẽ đoàn tụ: ‘Ta sẽ đi đến nó, nhưng nó không trở lại cùng ta.’ (c.23). Không chỉ vậy, Đức Chúa Trời còn ban cho Đa-vít một người con trai khác, Sa-lô-môn, và ‘Đức Giê-hô-va yêu mến nó’ (c.24).
Trường hợp này là một cảnh cáo và khuyến khích. Đó là lời cảnh báo chúng ta phải chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình, đặt ra những ranh giới, nhờ hỗ trợ thật sớm nếu cần, quan sát và cầu nguyện để không rơi vào cám dỗ.
Nếu bạn đã sa ngã, giống như Đa-vít, hãy chấp nhận tội lỗi của mình, xưng tội, ăn năn, có thể khóc lóc và sau đó tiếp tục cuộc sống, và chờ đợi những gì Chúa dành sẵn cho bạn. Tất cả chúng đều hết lần này đến lần khác gây rối. Chúa tha thứ. Ngài phục hồi. Ngài ban phước cho chúng ta một lần nữa.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, xin gìn giữ trái tim con và trái tim của tất cả dân Chúa, để chúng con có thể trung thành với Chúa.
Pippa chia sẻ
Trong 2 Sa-mu-ên chương 11-12, chúng ta thấy câu chuyện về Đa-vít và Bát-sê-ba và điều khiến tôi ngạc nhiên là chúng ta có thể cố gắng che đậy những sai sót của mình, nhưng Đức Chúa Trời nhìn thấy tất cả.
App
Tải xuống ứng dụng Kinh Thánh Trong Một Năm dành cho thiết bị iOS hoặc Android và đọc theo mỗi ngày.
Đăng ký ngay bây giờ để nhận Kinh thánh trong một năm trong hộp thư đến của bạn mỗi sáng. Bạn sẽ nhận được một email mỗi ngày.
Book
Kinh thánh trong một năm bình luận có sẵn như là một cuốn sách.
- Mua từ Cửa hàng Alpha
- [Mua từ Nhà sách CLC](https://clcbookshops.com/product/bible-in-one-year-the-a-commentary-by-nicky-gumbel-hard-cover-gumbel-nicky-hodder-stoughton- 9781473677067)
Tham khảo
Trừ khi có quy định khác, các trích dẫn Kinh thánh được lấy từ Kinh thánh, Phiên bản quốc tế mới được Anh hóa, Bản quyền © 1979, 1984, 2011 Biblica, trước đây là Hiệp hội Kinh thánh Quốc tế. Được sử dụng dưới sự cho phép của Hodder & Stoughton Publishers, một công ty của Hachette UK. Đã đăng ký Bản quyền. 'NIV' là nhãn hiệu đã đăng ký của Biblica. Nhãn hiệu Vương quốc Anh số 1448790.
Thánh Kinh được đánh dấu (MSG) lấy từ The Message. Bản quyền © 1993, 1994, 1995, 1996, 2000, 2001, 2002. Được sử dụng dưới sự cho phép của NavPress Publishing Group.