Khi Cuộc Sống Khó Khăn
Giới thiệu
Ông bị bắt vì rao giảng phúc âm. Vợ ông qua đời để lại cho ông bốn người con, một trong số đó bị mù. Tuy nhiên, ông không từ bỏ việc rao truyền tin lành về Chúa Giê-su cho mọi người.
John Bunyan đã viết tác phẩm vĩ đại nhất của mình trong phòng giam. Cuốn sách là một nguồn cảm hứng cho tâm linh và giúp ích cho vô số độc giả. Được dịch ra hơn 200 ngôn ngữ, nó chưa bao giờ hết bản in kể từ ngày được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1678.
Thiên lộ lịch trình là một câu chuyện ngụ ngôn kể về câu chuyện của một người tên là 'Christian' trên hành trình từ quê hương của anh ta đến Thiên đường. Trên đường đi ông gặp muôn vàn khó khăn, thử thách và trở ngại, nhưng ông vẫn kiên trì trung tín cho đến cùng.
Đời sống Cơ Đốc nhân không dễ dàng. Bạn sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn trên đường đi. Nhưng những điều này không thể làm bạn trật bánh. Trên thực tế, khi bạn trải qua những thời điểm khó khăn khi ở gần Chúa Giê-su, bạn sẽ trở nên mạnh mẽ hơn, khôn ngoan hơn và giống Chúa Giê-su hơn.
Thi Thiên 77:1-9
Đức Chúa Trời ở với dân Ngài trong cơn gian truân
Thi Thiên của A-sáp, sáng tác cho nhạc trưởng theo điệu “Giê-đu-thun”
1 Con kêu cầu với Đức Chúa Trời,
Cất tiếng hướng về Đức Chúa Trời và xin Ngài lắng nghe con.
2 Trong ngày gian truân, con tìm cầu Chúa;
Ban đêm, tay con giơ thẳng lên không mỏi;
Nhưng linh hồn con không được an ủi.
\t
3 Con nhớ đến Đức Chúa Trời và bồn chồn, than thở;
Tâm linh con nao sờn. (Sê-la)
4 Chúa giữ mí mắt con mở ra;
Con bị bối rối, không nói nên lời.
5 Con suy nghĩ về những ngày xưa
Và các năm đã qua.
6 Ban đêm con nhớ lại bài hát của con;
Con suy ngẫm trong lòng và tâm linh con băn khoăn tự hỏi:
\t
7 Chúa sẽ từ bỏ đến đời đời ư?
Ngài chẳng còn ban ơn nữa sao?
8 Sự nhân từ của Ngài chấm dứt mãi mãi ư?
Lời hứa của Ngài vĩnh viễn không còn nữa sao?
9 Đức Chúa Trời quên làm ơn sao?
Trong cơn giận, Ngài đóng chặt lòng thương xót ư?” (Sê-la)
Bình luận
Đau khổ: Bạn nên phản ứng như thế nào?
Tôi có một người bạn hiện là linh mục. Ông ấy nói với tôi rằng ông ấy thường bắt đầu những lời cầu nguyện của mình với ‘thời gian phàn nàn’! Thi thiên này cũng bắt đầu với việc tác giả tuôn ra những lời phàn nàn của mình với Chúa.
Có mối quan hệ với Đức Chúa Trời không bảo vệ chúng ta khỏi ‘đau khổ’ (c.2). Tác giả Thi Thiên “Chúa giữ mí mắt con mở ra Con bị bối rối, không nói nên lời” (c.4a). Ông cảm thấy như thể Chúa đã từ chối ông và rằng ông sẽ không bao giờ được hưởng ân huệ của Chúa nữa (c.7-9).
Trong nửa đầu của Thi thiên 77, chúng ta bắt đầu thấy cách phản ứng với sự khốn khổ. Bạn có thể yên tâm rằng:
1. Chúa lắng nghe tiếng kêu cầu của bạn
Hãy nói với Chúa chính xác những gì bạn đang cảm nhận:
'Con kêu cầu với Đức Chúa Trời, Cất tiếng hướng về Đức Chúa Trời và xin Ngài lắng nghe con. Trong ngày gian truân, con tìm cầu Chúa;’ (c.1–2a).
2. Chúa yêu thích sự chân thành của bạn
Có một tác dụng trị liệu trong việc đặt câu hỏi cách chân thành. Con dân Chúa đem những nghi ngờ, khó khăn và đau khổ của họ đến với Chúa và cầu hỏi Ngài. Ngay cả Chúa Giê-su, trên thập tự giá, đã đặt một câu hỏi, trích dẫn Thi-thiên 22:1: ‘Lạy Đức Chúa Trời tôi, Đức Chúa Trời tôi, sao Ngài lìa bỏ tôi?’ (Ma-thi-ơ 27:46).
Chúa muốn bạn thành thật với Ngài. Ngài không muốn bạn giả vờ rằng tất cả đều ổn. Ngài muốn nghe tiếng kêu của trái tim bạn. Điều này kéo bạn đến gần Ngài, ngay cả trong những lúc vô cùng đau khổ.
Cầu nguyện
Cảm ơn Chúa vì Ngài đã nghe thấy tiếng kêu than của trái tim con. Cảm ơn Chúa vì Chúa không từ chối con, và Ngài luôn thực hiện lời hứa của Ngài.
Công vụ 15:1-21
Giáo hội nghị tại Giê-ru-sa-lem
1 Có mấy người từ Giu-đê đến và dạy các anh em rằng: “Nếu anh em không chịu cắt bì theo luật Môi-se thì không thể được cứu.” 2 Bấy giờ, có sự bất đồng ý kiến và cuộc tranh luận dữ dội xảy ra giữa Phao-lô và Ba-na-ba với mấy người ấy. Vì thế, Phao-lô và Ba-na-ba cùng với vài người trong họ được chỉ định đi lên Giê-ru-sa-lem, đến với các sứ đồ và trưởng lão để hỏi về việc nầy. 3 Vậy, sau khi được Hội Thánh tiễn lên đường, họ trải qua Phê-ni-xi và Sa-ma-ri, thuật lại sự quy đạo của các dân ngoại, làm cho tất cả anh em đều rất vui mừng. 4 Khi đến Giê-ru-sa-lem, họ được Hội Thánh, các sứ đồ và trưởng lão tiếp đón, rồi họ thuật lại mọi điều Đức Chúa Trời đã làm qua họ.
5 Nhưng có mấy tín hữu thuộc phái Pha-ri-si đứng dậy nói: “Phải làm cắt bì cho những người ngoại, và truyền họ phải tuân giữ luật pháp Môi-se.”
6 Các sứ đồ và các trưởng lão họp lại để xem xét vấn đề nầy. 7 Sau khi bàn luận kỹ lưỡng, Phi-e-rơ đứng dậy nói với họ rằng: “Thưa anh em, anh em biết rằng từ những ngày đầu, Đức Chúa Trời đã chọn tôi trong số các anh em, để qua môi miệng tôi, những người ngoại được nghe sứ điệp Tin Lành và tin. 8 Đức Chúa Trời là Đấng biết lòng mọi người, đã chứng tỏ Ngài chấp nhận họ khi ban Đức Thánh Linh cho họ cũng như cho chúng ta. 9 Ngài chẳng phân biệt chúng ta với dân ngoại đâu, nhưng Ngài tẩy sạch lòng họ bởi đức tin. 10 Vậy bây giờ, tại sao anh em dám thử Đức Chúa Trời, gán cho các môn đồ cái ách mà tổ phụ chúng ta hoặc chính chúng ta cũng không thể mang nổi? 11 Trái lại, chúng ta tin rằng nhờ ân điển Chúa là Đức Chúa Jêsus, chúng ta được cứu cùng một cách như họ vậy.”
12 Cả hội nghị đều im lặng, lắng nghe Ba-na-ba và Phao-lô thuật lại những dấu lạ và phép mầu mà Đức Chúa Trời đã dùng hai ông thực hiện giữa các dân ngoại. 13 Khi họ dứt lời, Gia-cơ nói: “Thưa anh em, xin hãy nghe tôi! 14 Si-môn đã thuật lại thế nào Đức Chúa Trời lần đầu tiên thăm viếng các dân ngoại, để từ họ lấy ra một dân cho danh của Ngài. 15 Điều đó phù hợp với lời các nhà tiên tri đã chép:
16 ‘Sau các việc nầy, Ta sẽ trở lại,
Tái thiết nhà của Đa-vít đã bị sụp đổ.
Ta sẽ trùng tu những nơi bị tàn phá
Và phục hồi nó;
17 Để những người còn lại
Và tất cả các dân ngoại được gọi bằng danh Ta, đều tìm kiếm Chúa.
Chúa là Đấng đã thực hiện những việc ấy phán như vậy.
18 Đó là những việc được biết đến từ nghìn xưa.’
19 Vậy, tôi xét thấy không nên quấy rối những người trong dân ngoại đang trở về với Đức Chúa Trời; 20 nhưng chúng ta nên viết thư dặn họ giữ mình khỏi bị ô uế bởi các thần tượng và sự gian dâm, cũng đừng ăn thịt thú vật chết ngạt và huyết. 21 Vì từ các thế hệ xa xưa, trong mỗi thành, đều có những người giảng dạy luật pháp Môi-se và đọc luật ấy mỗi ngày sa-bát trong các nhà hội.”
Bình luận
Tranh chấp: Bạn nên giải quyết chúng như thế nào?
Không có gì đáng ngạc nhiên về việc 'tranh cãi', 'tranh chấp' và 'tranh luận' trong hội thánh ngày nay. Ở đây chúng ta đọc về một ‘cuộc tranh cãi và tranh luận gay gắt’ (c.2) về những yêu cầu để được chấp nhận là một Cơ đốc nhân – một thành viên của hội thánh – và để được ‘cứu’ (c.1). Cắt bì có phải là một yêu cầu không? (v.1).
Chúng ta thấy ở đây một quá trình bốn bước để ra quyết định. Đây là một mô hình tuyệt vời để giải quyết các tranh chấp trong hội thánh địa phương, quốc gia và thậm chí toàn cầu ngày nay.
1. Sắp xếp một cuộc họp
Một số khăng khăng rằng mọi người phải cắt bì. Phao-lô và Ba-na-ba phản đối quyết liệt. Họ triệu tập một cuộc họp đặc biệt tập hợp hai phía của cuộc tranh luận lại với nhau.
Đừng sợ xung đột. Khi mọi người cùng nhau thảo luận về những vấn đề quan trọng, việc xảy ra bất đồng là điều tự nhiên và hữu ích. Trên thực tế, đó là điều khiến các cuộc họp trở nên thú vị!
2. Xem xét và thảo luận
‘Tranh luận cứ lặp đi lặp lại, càng lúc càng gay gắt’ (c.7). Cuối cùng, có hai yếu tố đã ảnh hưởng đến cuộc tranh luận.
Đầu tiên, lý luận của họ dựa trên kinh nghiệm của Thánh Linh. Lập luận đầu tiên của Phi-e-rơ dựa trên những gì ông đã thấy Đức Thánh Linh làm tại nhà Cọt-nây: 'Đức Chúa Trời là Đấng biết lòng mọi người, đã chứng tỏ Ngài chấp nhận họ khi ban Đức Thánh Linh cho họ cũng như cho chúng ta. Ngài chẳng phân biệt chúng ta với dân ngoại đâu, nhưng Ngài tẩy sạch lòng họ bởi đức tin’ (c.8–9). Làm khác đi sẽ là chống lại Thiên Chúa. Điều này khiến ông đi đến kết luận: “Chúng ta tin rằng nhờ ân điển Chúa là Đức Chúa Jêsus, chúng ta được cứu cùng một cách như họ vậy” (c.11).
Thứ hai, lý luận của họ dựa trên bằng chứng của Kinh thánh. Gia-cơ chỉ ra rằng lời của Đức Chúa Trời và Thánh Linh của Đức Chúa Trời khớp nhau: ‘Điều đó phù hợp với lời các nhà tiên tri đã chép’ (c.15). Ông cho chỉ ra rằng Kinh thánh đã báo trước sự bao hàm “tất cả các dân ngoại” (c.17) và gợi ý một cách thức để tiến tới sự nhất quán trong việc đi theo kinh nghiệm của Đức Thánh Linh và chứng cớ của Kinh thánh (c.19–21). Chúng ta có thể chắc chắn rằng lời của Đức Chúa Trời và Thánh Linh của Đức Chúa Trời sẽ luôn luôn phù hợp với nhau. Điều chúng ta không thể chắc chắn là sự hiểu biết của chúng ta về một trong hai là chính xác. Những người tranh luận rằng mọi người nên cắt bì đã làm như vậy trên cơ sở Kinh thánh. Phi-e-rơ và Gia-cơ không gạt Kinh Thánh sang một bên, nhưng họ tranh luận rằng Lời Chúa đã bị hiểu sai.
3. Đi đến một quyết định
Cuối cùng, họ đã quyết định (c.22). Đây là một khoảnh khắc lạ thường trong thời kỳ hội thánh thời đầu. ‘Cả hội nghị đều im lặng, lắng nghe Ba-na-ba và Phao-lô thuật lại những dấu lạ và phép mầu mà Đức Chúa Trời đã dùng hai ông thực hiện giữa các dân ngoại’ (c.12). Đó là một khoảnh khắc sởn gai ốc khiến họ phải im lặng.
Vào cuối ngày, các quyết định đòi hỏi sự suy xét. Sứ đồ Gia-cơ nói, ‘tôi xét thấy’ (c.19). Yếu tố quyết định là họ không muốn ‘quấy rối những người trong dân ngoại đang trở về với Đức Chúa Trời’ (c.19). Tất cả mọi người đều được mời vào hội thánh, bất kể lý lịch của họ, mặc dù không phải tất cả mọi trường hợp đều được cho phép (c.20).
Bài học ở đây là chúng ta cần hết sức cẩn thận khi đặt những chướng ngại vật không cần thiết trước mặt những người đang khám phá đức tin nơi Chúa Giê-su và chúng ta cần cẩn thận khi định nghĩa hội thánh quá hẹp.
4. Thống nhất và truyền đạt quyết định
Họ đã viết nó ra (c.20). Biên bản cuộc họp không chỉ là hình thức. Điều quan trọng là phải ghi lại các quyết định. Sau đó, như chúng ta sẽ thấy trong bài ngày mai, chúng cần được truyền đạt lại cho tất cả mọi người (c.23–29).
Cầu nguyện
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự khôn ngoan khi giải quyết những tranh chấp trong hội thánh. Cảm ơn Chúa vì ngày nay Chúa lại tuôn đổ Thánh Linh của Ngài trên tất cả các bộ phận của hội thánh. Xin giúp chúng con có cùng thái độ với Chúa, Ngài ‘không phân biệt chúng con với họ’ (c.9).
1 Các Vua 9:10-11:13
Uy thế của Sa-lô-môn
10 Sau hai mươi năm xây dựng hai công trình là đền thờ Đức Giê-hô-va và cung vua, 11 Sa-lô-môn trao cho Hi-ram, vua Ty-rơ, hai mươi thành trong miền Ga-li-lê, vì Hi-ram đã cung cấp cho Sa-lô-môn gỗ bá hương, gỗ tùng và vàng theo ý vua muốn. 12 Nhưng khi Hi-ram từ Ty-rơ đến xem các thành mà Sa-lô-môn đã trao cho mình thì không hài lòng về các thành đó. 13 Vì vậy, vua nói: “Thưa ngài, ngài cho tôi những thành như thế nầy sao?” Rồi vua Hi-ram gọi các thành ấy là đất Ca-bun, và người ta vẫn còn gọi như vậy đến ngày nay. 14 Hi-ram đã gửi cho vua Sa-lô-môn ba nghìn sáu trăm ký vàng.
Các việc làm khác của Sa-lô-môn
15 Vua Sa-lô-môn đã huy động lực lượng lao dịch để xây cất đền thờ Đức Giê-hô-va và cung điện mình, công trình Mi-lô, vách thành Giê-ru-sa-lem, Hát-so, Mê-ghi-đô, và Ghê-xe. 16 (Ghê-xe vốn là một thành của người Ca-na-an bị Pha-ra-ôn, vua Ai Cập, đánh chiếm, thiêu hủy thành và giết dân Ca-na-an ở trong thành, rồi ban thành ấy làm của hồi môn cho con gái mình, là vợ Sa-lô-môn.) 17 Sa-lô-môn xây thành Ghê-xe, Bết Hô-rôn Hạ, 18 Ba-lát, và Tát-mốt, trong hoang mạc của xứ, 19 và xây cất tất cả các thành có kho dự trữ lương thực của Sa-lô-môn, các thành để chiến xa, các thành cho kỵ binh, và tất cả những gì Sa-lô-môn muốn xây cất tại Giê-ru-sa-lem, Li-ban và trong toàn lãnh thổ thuộc quyền vua.
20 Tất cả những người còn sống sót thuộc các dân A-mô-rít, Hê-tít, Phê-rê-sít, Hê-vít, và dân Giê-bu-sít, không phải dân Y-sơ-ra-ên; 21 tức là các con cháu của họ còn lại trong xứ, mà dân Y-sơ-ra-ên không thể tiêu diệt hoàn toàn, đều bị Sa-lô-môn bắt lao động nặng nhọc cho đến ngày nay. 22 Nhưng Sa-lô-môn không bắt dân Y-sơ-ra-ên làm nô dịch. Họ là những chiến binh, quan chức, sĩ quan chỉ huy, những người điều khiển chiến xa và kỵ binh của vua. 23 Có tất cả năm trăm năm mươi quan chức cai quản các công trình của Sa-lô-môn; họ giám sát dân chúng làm việc trong các công trình.
24 Khi con gái của Pha-ra-ôn từ thành Đa-vít lên ở trong cung điện mà vua Sa-lô-môn đã xây cho nàng, thì vua bắt đầu xây dựng công trình Mi-lô.
25 Mỗi năm ba lần, Sa-lô-môn dâng tế lễ thiêu và tế lễ bình an trên bàn thờ mà vua đã xây cho Đức Giê-hô-va, và xông hương trên bàn thờ đã đặt trước mặt Đức Giê-hô-va. Như vậy, vua hoàn thành công trình xây cất đền thờ. Hoạt động thương mại của Sa-lô-môn
26 Vua Sa-lô-môn cũng cho đóng một đoàn tàu tại Ê-xi-ôn Ghê-be, gần Ê-lốt, trên bờ Biển Đỏ, trong đất Ê-đôm. 27 Hi-ram phái các đầy tớ mình, là những thủy thủ thông thạo ngành hàng hải, đến giúp các đầy tớ của Sa-lô-môn trong đoàn tàu đó. 28 Họ đến Ô-phia và đem gần mười ba tấn vàng ở đó về nộp cho vua Sa-lô-môn.
10
Cuộc viếng thăm của nữ hoàng Sê-ba
(II Sử 9:1-12)
1 Nữ hoàng nước Sê-ba nghe nói Sa-lô-môn nhờ danh của Đức Giê-hô-va mà nổi tiếng, nên đến để thử tài Sa-lô-môn với những câu hỏi hóc búa. 2 Bà đến Giê-ru-sa-lem với một đoàn tùy tùng đông đảo, có nhiều lạc đà chở hương liệu và một số lượng rất lớn vàng cùng đá quý. Bà đến gặp vua Sa-lô-môn và nói với vua tất cả những gì bà suy nghĩ trong lòng. 3 Sa-lô-môn giải đáp tất cả các vấn đề bà đưa ra, không có vấn đề nào quá bí ẩn mà vua không giải đáp cho bà được. 4 Khi nữ hoàng Sê-ba thấy tất cả sự khôn ngoan của Sa-lô-môn, cung điện vua đã xây cất, 5 những món ăn trên bàn vua, chỗ ngồi của các quần thần, cung cách làm việc và trang phục của họ, các thứ rượu của vua, và các tế lễ thiêu mà vua dâng trong đền thờ Đức Giê-hô-va, thì bà mất vía.
6 Bà nói với vua: “Những gì tôi đã nghe ở nước tôi về ngài và sự khôn ngoan của ngài thì quả đúng sự thật. 7 Nhưng trước khi đến đây và thấy tận mắt những điều nầy thì tôi chẳng tin. Thực ra người ta nói chưa đến được một nửa! Sự khôn ngoan và giàu có của ngài vượt trội hơn những gì tôi đã nghe. 8 Các bà vợ của ngài thật có phước! Quần thần của ngài, những người luôn đứng chầu trước mặt ngài và được nghe sự khôn ngoan của ngài, thật phước biết bao! 9 Chúc tụng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ngài, Đấng đã vui lòng đặt ngài trên ngai Y-sơ-ra-ên! Chính vì yêu thương Y-sơ-ra-ên đến đời đời nên Đức Giê-hô-va đã lập ngài làm vua để thực thi công lý và sự công chính.”
10 Rồi nữ hoàng tặng nhà vua ba nghìn sáu trăm ký vàng, và rất nhiều hương liệu cùng đá quý. Chưa từng có người nào đem tặng số hương liệu nhiều như nữ hoàng Sê-ba đã tặng vua Sa-lô-môn.
11 Ngoài ra, đoàn tàu của Hi-ram đem vàng từ Ô-phia về, cũng đem theo rất nhiều gỗ bạch đàn và đá quý. 12 Vua dùng gỗ bạch đàn nầy làm bao lơn cho đền thờ Đức Giê-hô-va và cung vua, làm đàn hạc và đàn lia cho các ca đoàn. Từ đó đến nay, chẳng có ai đem vào hoặc thấy số gỗ bạch đàn nhiều như thế.
13 Vua Sa-lô-môn tặng cho nữ hoàng Sê-ba tất cả những gì bà thích và xin, không kể những tặng vật mà vua Sa-lô-môn đã cho bà theo lòng hào phóng của vua. Sau đó, bà và đoàn tùy tùng lên đường về nước.
14 Số lượng vàng mà vua Sa-lô-môn thu nhận hằng năm cân nặng khoảng hai mươi tấn, 15 không kể số thu nhập qua các tay buôn, qua sự trao đổi mậu dịch của các thương gia, qua các vua Ả-rập và các tổng đốc trong nước đem nộp.
16 Vua Sa-lô-môn làm hai trăm cái khiên lớn dát vàng, mỗi cái dùng gần bảy ký vàng. 17 Vua cũng làm ba trăm cái khiên nhỏ dát vàng, mỗi cái dùng gần hai ký vàng. Vua đặt các khiên ấy trong cung Rừng Li-ban.
18 Vua lại làm một cái ngai lớn bằng ngà, bọc vàng ròng. 19 Ngai nầy có sáu bậc. Phần trên chỗ tựa lưng của ngai có hình tròn, hai bên chỗ ngồi có thanh gác tay, và mỗi bên có một con sư tử đứng kề. 20 Ngoài ra còn có mười hai con sư tử khác đứng trên sáu bậc ở hai bên. Chẳng có vương quốc nào làm ngai giống như vậy. 21 Tất cả các ly chén dùng để uống của vua Sa-lô-môn đều bằng vàng, và tất cả vật dụng trong cung Rừng Li-ban cũng đều bằng vàng ròng. Không có vật dụng gì làm bằng bạc, vì trong thời vua Sa-lô-môn, bạc không có giá trị gì cả. 22 Cứ mỗi ba năm, đoàn tàu đi Ta-rê-si của vua vượt biển cùng với đoàn tàu của Hi-ram đem về vàng, bạc, ngà voi, khỉ và công.
23 Vì vậy, vua Sa-lô-môn vượt hơn tất cả các vua trên thế giới về sự giàu có và khôn ngoan. 24 Cả thiên hạ đều mong được gặp Sa-lô-môn để nghe sự khôn ngoan mà Đức Chúa Trời đã đặt để trong lòng vua. 25 Ai đến gặp vua đều đem theo lễ vật như: vật dụng bằng bạc và bằng vàng, áo khoác, binh giáp, hương liệu, ngựa và la.
26 Sa-lô-môn cũng tập trung nhiều chiến xa và kỵ binh; vua có một nghìn bốn trăm cỗ xe và mười hai nghìn kỵ binh đóng trong các thành có chiến xa và ngay tại Giê-ru-sa-lem, bên cạnh vua. 27 Tại Giê-ru-sa-lem, vua đã làm cho bạc trở nên tầm thường như đá, và gỗ bá hương nhiều như cây sung mọc ở miền Sơ-phê-la. 28 Vua Sa-lô-môn cho mua ngựa từ Ai Cập; và Cơ-vê các tay buôn của vua mua từ Cơ-vê với giá phải chăng. 29 Mỗi cỗ xe mua từ Ai Cập với giá gần bảy ký bạc, còn mỗi con ngựa giá gần hai ký. Các vua dân Hê-tít và A-ram cũng nhờ những tay buôn của vua mua về theo giá ấy.
11
Sa-lô-môn lìa bỏ Đức Chúa Trời
1 Ngoài con gái của Pha-ra-ôn, vua Sa-lô-môn còn yêu mến nhiều cô gái ngoại bang khác; đó là các cô gái người Mô-áp, Am-môn, Ê-đôm, Si-đôn và Hê-tít. 2 Họ thuộc các dân mà Đức Giê-hô-va đã truyền phán với dân Y-sơ-ra-ên rằng: “Các con chớ kết thông gia với chúng, vì chắc chắn chúng sẽ quyến rũ các con theo các thần của chúng.” Tuy nhiên, Sa-lô-môn vẫn yêu say đắm các cô gái ấy. 3 Vua có bảy trăm bà vợ và ba trăm cung phi; họ làm cho lòng vua lầm lạc. 4 Thật vậy, khi Sa-lô-môn về già, các bà vợ của vua đã quyến rũ vua theo các thần khác. Lòng vua không còn trung thành với Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình như Đa-vít, cha của vua, 5 vì Sa-lô-môn đã đi theo nữ thần Át-tạt-tê của người Si-đôn và thần Minh-côm, một thần đáng ghê tởm của người Am-môn. 6 Như thế, Sa-lô-môn đã làm điều ác dưới mắt Đức Giê-hô-va, không hết lòng theo Đức Giê-hô-va như Đa-vít, cha vua.
7 Bấy giờ, Sa-lô-môn xây một nơi cao trên núi đối diện với Giê-ru-sa-lem cho thần Kê-mốt là thần đáng ghê tởm của người Mô-áp, và cho thần Mo-lóc là thần đáng ghê tởm của người Am-môn. 8 Vua cũng làm như vậy cho tất cả các bà vợ ngoại bang của mình; họ xông hương và dâng sinh tế cho các thần của mình.
9 Đức Giê-hô-va nổi giận với Sa-lô-môn vì lòng vua lìa bỏ Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng đã hai lần hiện ra với vua, 10 phán bảo vua chớ theo các thần khác, nhưng vua đã không vâng lệnh Đức Giê-hô-va. 11 Vì vậy, Đức Giê-hô-va phán với Sa-lô-môn: “Vì con đã làm như thế, không giữ giao ước và luật pháp Ta truyền cho con nên Ta chắc chắn sẽ xé vương quốc của con ra và ban cho thuộc hạ của con. 12 Tuy nhiên, vì Đa-vít, cha của con, Ta sẽ không làm điều đó trong đời con. Nhưng Ta sẽ đoạt lấy vương quốc khỏi tay con trai con. 13 Dù vậy, Ta sẽ không đoạt lấy cả vương quốc khỏi nó; nhưng vì Đa-vít, đầy tớ Ta, và vì Giê-ru-sa-lem mà Ta đã chọn, Ta sẽ để lại một bộ tộc cho con của con.”
Bình luận
Mồi nhử: Bạn nên chống cự chúng như thế nào?
Cuộc đời của Sa-lô-môn đặt ra cho chúng ta một thử thách và một lời cảnh báo: đối với chúng ta thành công có thể nguy hiểm hơn là thất bại.
Sa-lô-môn đã làm nhiều điều đúng. Ông rất thành công – vị vua giàu có và khôn ngoan nhất vào thời của ông (10:23). Mọi người đều muốn gặp ông ‘để nghe sự khôn ngoan mà Đức Chúa Trời đã đặt để trong lòng vua’ (c.24).
Sa-lô-môn có mọi thứ. Trong hai mươi năm, ông đã xây dựng hai công trình vĩ đại: đền thờ và cung điện của mình (9:10). Nữ hoàng Sê-ba vô cùng kinh ngạc trước những gì bà nhìn thấy (c.7). Bà nhận ra đó chỉ có thể là Đức Chúa Trời: ‘lập ngài làm vua để thực thi công lý và sự công chính’ (c.9).
Tuy nhiên, bi kịch là Sa-lô-môn đã không kết thúc tốt. Ông đã lạc lối. ‘Lòng vua không còn trung thành với Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình như Đa-vít, cha của vua...lòng vua lìa bỏ Giê-hô-va’ (11:4,9).
Chuyện gì đã xảy ra vậy? Bắt đầu từ sự lăng nhăng. Vua Sa-lô-môn ám ảnh với tình dục: ‘Ông có bảy trăm hoàng hậu và ba trăm cung phi – tất cả là một nghìn cung nữ!’ (c.3).
Và kết thúc với những thần đáng ghê tởm sau đây: ‘khi Sa-lô-môn về già, các bà vợ của vua đã quyến rũ vua theo các thần khác’ (4a). Ông ‘đã làm điều ác dưới mắt Đức Giê-hô-va, không hết lòng theo Đức Giê-hô-va như Đa-vít, cha vua’ (c.6). Ông đã hành động trái với mệnh lệnh rõ ràng của Chúa rằng vua ‘không được có nhiều vợ kẻo lòng dạ lầm lạc. Vua cũng không được thâu trữ nhiều bạc vàng’ (Phục Truyền Luật Lệ Ký 17:17). Những mồi nhử này đã khiến Sa-lô-môn lạc lối.
Đa-vít lộn xộn hết lần này đến lần khác. Khi ông làm như vậy, ông đã ăn năn và quay trở lại với Chúa và hết lòng theo Ngài. Sa-lô-môn cho chúng ta thấy điều gì đó khác biệt. Bảy trăm phu nhân, ba trăm thê thiếp không phải một sớm một chiều. Chắc hẳn đã có sự thỏa hiệp trong lòng Sa-lô-môn. Bất chấp mọi ân phước của Đức Chúa Trời, Sa-lô-môn đã để cho tội lỗi sinh sôi và cuối cùng, nó đã hủy hoại ông.
Để tránh kết cục như Sa-lô-môn, bạn cần ở gần Chúa Giê-su và lắng nghe Ngài. Vì như Chúa Giê-su đã nói, Nữ hoàng Sê-ba ‘từ đầu cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Sa-lô-môn; nhưng tại đây có người còn cao trọng hơn Sa-lô-môn’ (Ma-thi-ơ 12:42).
Cầu nguyện
Chúa ơi, cảm ơn Chúa vì lời cảnh báo này. Xin hãy bảo vệ tấm lòng con. Xin giúp con tận hiến trọn vẹn cho Chúa, trọn vẹn theo Chúa cho đến cuối cuộc đời.
Pippa chia sẻ
1 Các Vua 11:1
Làm sao Sa-lô-môn, một người đàn ông khôn ngoan, lại có thể trở nên ngốc như vậy trước phụ nữ? Ông cũng không vâng phục. Chúa đã nói không kết hôn với phụ nữ ở những nơi đó. Nhưng Sa-lô-môn đã làm. Chúa nói rằng họ sẽ dẫn ông đi lạc lối. Và điều đó đã xảy ra.
App
Tải xuống ứng dụng Kinh Thánh Trong Một Năm dành cho thiết bị iOS hoặc Android và đọc theo mỗi ngày.
Đăng ký ngay bây giờ để nhận Kinh thánh trong một năm trong hộp thư đến của bạn mỗi sáng. Bạn sẽ nhận được một email mỗi ngày.
Book
Kinh thánh trong một năm bình luận có sẵn như là một cuốn sách.
- Mua từ Cửa hàng Alpha
- [Mua từ Nhà sách CLC](https://clcbookshops.com/product/bible-in-one-year-the-a-commentary-by-nicky-gumbel-hard-cover-gumbel-nicky-hodder-stoughton- 9781473677067)
Tham khảo
Trừ khi có quy định khác, các trích dẫn Kinh thánh được lấy từ Kinh thánh, Phiên bản quốc tế mới được Anh hóa, Bản quyền © 1979, 1984, 2011 Biblica, trước đây là Hiệp hội Kinh thánh Quốc tế. Được sử dụng dưới sự cho phép của Hodder & Stoughton Publishers, một công ty của Hachette UK. Đã đăng ký Bản quyền. 'NIV' là nhãn hiệu đã đăng ký của Biblica. Nhãn hiệu Vương quốc Anh số 1448790.
Thánh Kinh được đánh dấu (MSG) lấy từ The Message. Bản quyền © 1993, 1994, 1995, 1996, 2000, 2001, 2002. Được sử dụng dưới sự cho phép của NavPress Publishing Group.