Ngày 191

Tin cậy nơi Chúa

Khôn ngoan Thi thiên 82:1-8
Tân ước Công vụ 27:13-44
Cựu Ước 2 Các Vua 18:1-19:

Giới thiệu

Một trong những trở ngại lớn nhất để đến với đức tin là sự đau khổ của những người vô tội. Đó thường là một trong những câu hỏi đầu tiên được đặt ra trong một nhóm nhỏ Alpha: ‘Nếu có một Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta, tại sao lại có quá nhiều đau khổ trên thế giới? Tại sao lại có sự bất công và áp bức như vậy?

Đây là những câu hỏi rất quan trọng và cần thiết nhưng không dễ trả lời. Tuy nhiên, Thiên Chúa có thể gặp gỡ chúng ta giữa những đau khổ và đấu tranh. Thật kỳ lạ, thường thì những người chịu nhiều khổ đau nhất lại là những người có niềm tin mạnh mẽ nhất. Họ làm chứng về sự hiện diện của Chúa với họ, Ngài tiếp sức và an ủi họ trong những lúc họ đau khổ, tuyệt vọng. Betsie ten Boom, khi hấp hối trong trại tập trung Ravensbrück, đã quay sang em gái Corrie và nói: 'Chúng ta phải nói với họ rằng không có cái hố nào sâu đến mức mà Chúa không thể chạm tới. Họ sẽ lắng nghe chúng ta, Corrie ạ, vì chúng ta đã ở đó.”

Đức tin bao hàm việc tin cậy nơi Chúa. Dân Chúa trong Kinh thánh nhìn ra một thế giới đau khổ. Nhưng họ đã tin cậy vào Chúa bất chấp những gì họ đã thấy.

Khôn ngoan

Thi thiên 82:1-8

1 Đức Chúa Trời ngự trong hội đồng của Chúa;
   Ngài phán xét giữa các thần: \t 2“Các ngươi phán xét không công minh
   Và thiên vị kẻ ác cho đến chừng nào?
3 Hãy bênh vực người khốn cùng và kẻ mồ côi;
   Xét xử công minh cho người thiếu thốn và kẻ khốn cùng.
4Hãy cứu vớt kẻ yếu đuối và người thiếu thốn,
   Giải cứu họ khỏi tay kẻ ác.”

5Chúng không biết cũng không hiểu gì,
   Chúng bước đi trong tối tăm;
   Vì thế, các nền trái đất đều bị rúng động.

6 Ta phán: “Các ngươi là thần
   Tất cả đều là con trai của Đấng Chí Cao.
7 Tuy nhiên, các ngươi sẽ chết như loài người,
   Và sẽ ngã xuống như mọi thủ lĩnh khác.”

8 Lạy Đức Chúa Trời, xin mau mau phán xét thế gian,
   Vì muôn dân đều là cơ nghiệp của Ngài.

Bình luận

Hãy tín thác vào Chúa giữa sự bất công và chống đối

Làm thế nào để chúng ta đối phó với tất cả sự bất công trên thế giới? Tác giả Thi Thiên tin rằng cuối cùng Đức Chúa Trời sẽ sắp đặt mọi việc đúng với ý muốn của Ngài: ‘Vì muôn dân đều là cơ nghiệp của Ngài!’ (c.8b)

Được sống dưới một hệ thống luật pháp tốt là một phước lành lớn. Thật là một lời nguyền khủng khiếp khi sống dưới những kẻ xét xử bất công và tha hóa. Nhưng cuối cùng, Chúa sẽ gọi họ vào để phán xét.

‘Đức Chúa Trời ngự trong hội đồng của Chúa; Ngài phán xét giữa các thần'. Hãy tin tưởng rằng Chúa là 'Tổng thống'(c.1) - Ngài có quyền lực tối cao.

'Ngài... phán xét giữa các thần." Các ngươi phán xét không công minh và thiên vị kẻ ác cho đến chừng nào"(c.2). Nhưng đặt niềm tin vào ‘chức vụ tổng thống’ của Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ dẫn đến sự tự mãn hoặc thụ động. Tác giả của thi thiên khao khát nhìn thấy thế giới thay đổi.

Chúng ta không chỉ tin tưởng vào Chúa mà còn phải làm mọi thứ trong khả năng của mình để đòi lại công lý. Chúng ta phải hành động vì người thiếu thốn: ‘Hãy bênh vực người khốn cùng và kẻ mồ côi; Xét xử công minh cho người thiếu thốn và kẻ khốn cùng; Hãy cứu vớt kẻ yếu đuối và người thiếu thốn; Giải cứu họ khỏi tay kẻ ác.’ (c.3-4)

Sẽ đến lúc mọi thứ ổn thỏa; sự bất công sẽ bị loại bỏ và có sự giải thoát khỏi những kẻ xét xử bất công. Ông cầu nguyện: ‘Lạy Đức Chúa Trời, xin mau mau phán xét thế gian.’ (c.8a)

Trong khi chúng ta hy vọng về sự phán xét cuối cùng của Đức Chúa Trời, chúng ta cũng thực hành sự công bình bằng cách hành động ngay bây giờ vì lợi ích của người khốn cùng và người bị áp bức. Chúng ta nên đưa ra thách thức tương tự đối với những người nắm quyền, 'Bạn sẽ tiếp tục bào chữa cho nguyên nhân của sự bất công cho đến bao giờ?'

Cầu nguyện

Chúa ơi, cảm ơn Ngài vì một ngày nào đó Ngài sẽ mang sự công bình đến cho tất cả. Ngài sẽ đặt mọi thứ đúng với vị trí của nó. Trong khi chờ đợi, xin hãy giúp con hành động vìnhững người nghèo khổ và bị áp bức trên thế giới.

Tân ước

Công vụ 27:13-44

Bão

13 Khi gió nam bắt đầu thổi nhẹ, họ tưởng có thể thực hiện được kế hoạch nên nhổ neo và đi dọc theo đảo Cơ-rết. 14 Nhưng chẳng bao lâu, một trận cuồng phong gọi là Ơ-ra-qui-lôn từ trên đảo quật xuống. 15 Tàu bị cuốn đi và không thể đương đầu nổi với sức gió nên chúng tôi đành bỏ mặc cho nó trôi giạt. 16 Khi tàu trôi qua phía nam của một đảo nhỏ gọi là Cơ-lô-đa, chúng tôi phải khó nhọc lắm mới bảo vệ được chiếc xuồng cứu sinh. 17 Sau khi kéo xuồng lên, họ dùng dây cáp buộc chặt quanh chiếc tàu; rồi vì sợ mắc cạn trên bãi Si-rơ-tơ nên họ hạ buồm xuống, để mặc cho gió đưa đi. 18 Ngày hôm sau, cơn bão vẫn tiếp tục thổi mạnh nên họ bắt đầu ném hàng hóa xuống biển. 9 Ngày thứ ba, họ tự tay mình ném những trang thiết bị trên tàu xuống biển. 20 Trong suốt nhiều ngày, không có mặt trời cũng chẳng có ngôi sao nào xuất hiện, và cơn bão thì cứ thổi mạnh. Cuối cùng, chúng tôi chẳng còn hi vọng được cứu nữa.

21 Vì họ nhịn đói đã lâu ngày, nên Phao-lô đứng ở giữa họ và nói: “Thưa các ông, nếu hôm trước các ông nghe lời tôi, đừng rời khỏi đảo Cơ-rết thì chúng ta đã tránh được thiệt hại và mất mát nầy. 22 Nhưng bây giờ, tôi khuyên các ông hãy vững lòng; trong các ông chẳng ai thiệt mạng cả, chỉ mất chiếc tàu mà thôi! 23 Vì đêm qua, một thiên sứ của Đức Chúa Trời, Đấng tôi thuộc về và phục vụ, đã hiện đến với tôi và phán: 24 ‘Hỡi Phao-lô, đừng sợ! Con phải ứng hầu trước Sê-sa; và nầy, Đức Chúa Trời đã ban cho con tất cả những người cùng đi tàu với con.’25 Vậy xin các ông hãy vững lòng, vì tôi tin chắc nơi Đức Chúa Trời rằng điều ấy sẽ xảy ra đúng như lời Ngài đã phán. 26 Nhưng chắc hẳn chúng ta sẽ bị trôi giạt vào một đảo nào đó.”

Chìm tàu

27 Đã đến đêm thứ mười bốn mà chúng tôi vẫn lênh đênh trên biển A-đờ-ri-a-tích. Vào lúc nửa đêm, các thủy thủ tưởng rằng họ đang đến gần đất liền. 28 Họ thả trái dò xuống thì thấy sâu hai chục sải; đi xa một ít nữa, họ lại thả trái dò thì thấy mười lăm sải. 29 Bấy giờ, sợ đụng phải chỗ có đá nên họ từ phía đuôi tàu thả bốn neo xuống, và cầu mong cho trời mau sáng. 30 Nhưng vì các thủy thủ đang tìm cách trốn khỏi tàu nên thả chiếc xuồng xuống biển, giả vờ đi thả neo trước mũi tàu. 31 Vì thế, Phao-lô nói với viên đội trưởng và binh sĩ: “Các ông không thể được cứu thoát, trừ phi những người nầy cứ ở trong tàu.” 32 Bấy giờ, những binh sĩ cắt dây buộc chiếc xuồng ấy, cho nó rơi xuống.

33 Khi trời sắp sáng, Phao-lô khuyên mọi người hãy ăn. Ông nói: “Các ông đã trông đợi liên tục mười bốn ngày nay, nhịn đói chẳng ăn chút nào. 34 Vậy, tôi khuyên các ông hãy ăn để bảo toàn mạng sống vì chẳng một sợi tóc nào trên đầu các ông sẽ mất cả.” 35 Nói xong, Phao-lô lấy bánh, đứng trước mặt mọi người, tạ ơn Đức Chúa Trời, rồi bẻ ra và bắt đầu ăn. 36 Bấy giờ mọi người được khích lệ và cũng ăn uống. 37 Chúng tôi có tất cả hai trăm bảy mươi sáu người trong tàu. 38 Sau khi ăn no nê, họ ném lúa mì xuống biển, làm cho nhẹ tàu.

39 Đến sáng, họ không nhận biết là đất nào, nhưng thấy có cái vịnh với bãi biển nên dự định nếu có thể thì cho tàu cập vào bờ. 40 Vậy, họ dứt dây neo bỏ xuống biển, đồng thời tháo dây buộc bánh lái; rồi họ giương buồm thuận theo chiều gió, chạy thẳng vào bờ. 41 Nhưng tàu chạy đụng phải bãi cát ngầm nên bị mắc cạn. Đầu tàu cắm xuống cát nằm bất động, còn đuôi tàu thì bị sóng đánh bể nát hết.

42 Bấy giờ quân lính định giết tất cả tù nhân để không một người nào có thể bơi vào bờ và trốn thoát. 43 Nhưng viên đội trưởng muốn cứu Phao-lô nên ngăn trở ý định đó. Ông ra lệnh cho ai biết bơi thì nhảy xuống trước và bơi vào bờ; 44 số còn lại theo sau, người thì cỡi trên ván, kẻ thì ôm mảnh vỡ của chiếc tàu. Thế là mọi người đều được lên bờ an toàn.

Bình luận

Trông cậy vào Chúa giữa những tai họa và chiến tranh

Khi có những điều không như ý trong cuộc sống, đôi khi bạn có bị cám dỗ để hoảng sợ không? Tôi biết rằng tôi có đấy. Nếu mọi thứ đang diễn ra tốt đẹp trong cuộc sống của chúng ta, thì chúng ta tương đối dễ tin cậy vào Chúa. Tuy nhiên, có những lúc chúng ta đối mặt với những thử thách lớn đối trong đức tin của mình. Trong số nhiều thử thách, khó khăn và trở ngại, Phao-lô ba lần bị đắm tàu (2 Cô-rinh-tô 11:23b–25).

Trong đoạn kinh thánh hôm nay, chúng ta đọc về một trong những lần đó. Lúc đầu, có vẻ như Phao-lô đã sai khi tiên đoán về thảm họa vì thời tiết rất thuận lợi cho cuộc hành trình (Công vụ 27:13), nhưng sau đó một trận cuồng phong bắt đầu (c.14). Đó hẳn là một trải nghiệm đáng sợ. Lu-ca viết, ‘[họ] cuối cùng đã hết hy vọng được cứu’ (c.20).

Tuy nhiên, Phao-lô vẫn tiếp tục tin cậy Chúa, nói với những người trên tàu rằng hãy “tin cậy Đức Chúa Trời”, rằng Đức Chúa Trời vẫn đang tể trị và Ngài đã hứa giải cứu họ (c.23-25).

Tai họa này đã xảy ra để họ lắng nghe Phao-lô. Thật bất thường, tù nhân Phao-lô dường như hoàn toàn nắm được tình hình. Ông ấy nói với họ, ‘đáng lẽ các anh phải nghe lời tôi’ (c.21). Ông là người ngăn các thủy thủ nhảy tàu (c.30).

Đây là một ví dụ tuyệt vời về sự lãnh đạo không cần chức danh hay chức vụ. Các nhà lãnh đạo giỏi nhất có thể lãnh đạo, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, bằng ảnh hưởng và sự thuyết phục.

Tình trạng hỗn loạn đã cho Phao-lô cơ hội để nói về đức tin của mình. Ông nắm lấy cơ hội mặc dù chắc hẳn ông đang phải chịu đựng rất nhiều vì đói và ảnh hưởng của cơn bão.

Phao-lô thấy mình thuộc về Đức Chúa Trời (‘Đức Chúa Trời mà tôi thuộc về’) và là đầy tớ của Ngài (‘Đấng tôi hầu việc’) (c.23). Nhưng Đức Chúa Trời không chỉ là chủ nhân và chủ nhân của ông; Phao-lô tin cậy Đức Chúa Trời và có sự bảo đảm sâu sắc về tình yêu thương của Ngài. Ông biết rằng Chúa muốn điều tốt nhất cho ông, Ngài cũng muốn điều đó cho mỗi chúng ta.

Phao-lô đảm bảo với họ: ‘chẳng một sợi tóc nào trên đầu các ông sẽ mất cả’ (c.34). Và, ‘Nói xong, Phao-lô lấy bánh, đứng trước mặt mọi người, tạ ơn Đức Chúa Trời, rồi bẻ ra và bắt đầu ăn” (c.35).

Bất chấp thảm họa ập đến, Đức Chúa Trời vẫn nắm quyền kiểm soát tối cao: ‘quân lính định giết tất cả tù nhân để không một người nào có thể bơi vào bờ và trốn thoát. Nhưng viên đội trưởng muốn cứu Phao-lô nên ngăn trở ý định đó.’ (c.42–43a).

Đức Chúa Trời khiến Phao-lô được ơn trước mặt mọi người cũng như trước mặt Đức Chúa Trời. Kết quả là ‘mọi người đều lên bờ an toàn’ (c.44).

Không gì có thể ngăn cản Đức Chúa Trời cứu Phao-lô và sử dụng ông để thực hiện các mục đích của Ngài và cứu mạng sống.

Cầu nguyện

Chúa ơi, cảm ơn Ngài vì đã bảo vệ con ngay cả khi tai họa ập đến. Khi mọi thứ trở nên tồi tệ, xin giúp con không sợ hãi mà giữ vững can đảm và trông cậy nơi Chúa.

Cựu Ước

2 Các Vua 18:1-19:

Ê-xê-chia làm vua Giu-đa

1 Năm thứ ba đời trị vì của Ô-sê, con Ê-la, vua Y-sơ-ra-ên, thì Ê-xê-chia, con A-cha, vua Giu-đa, lên làm vua. 2 Khi lên ngai, vua được hai mươi lăm tuổi, và cai trị hai mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là A-bi, con gái của Xa-cha-ri. 3 Vua làm điều ngay thẳng dưới mắt Đức Giê-hô-va như Đa-vít, tổ phụ vua, đã làm. 4 Vua phá hủy các nơi cao, đập vỡ những trụ thờ, triệt hạ các tượng A-sê-ra, và đập nát con rắn bằng đồng mà Môi-se đã làm. Vì cho đến lúc đó, dân Y-sơ-ra-ên vẫn xông hương cho nó; người ta gọi nó là Nê-hu-tan.

5 Ê-xê-chia tin cậy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đến mức trong tất cả các vua Giu-đa, trước hoặc sau vua, chẳng có ai được như vua. 6 Vua bám chặt Đức Giê-hô-va, không rời khỏi Ngài, nhưng tuân giữ các điều răn mà Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se. 7 Vì thế, Đức Giê-hô-va ở với vua, bất cứ điều gì vua làm đều được thành công. Vua nổi lên chống lại vua A-si-ri, không thần phục vua ấy nữa. 8 Vua đánh bại người Phi-li-tin đến tận Ga-xa và vùng phụ cận, từ tháp canh cho đến thành trì kiên cố.  9 Vào năm thứ tư đời trị vì của Ê-xê-chia, nhằm năm thứ bảy đời trị vì của Ô-sê, con Ê-la, vua Y-sơ-ra-ên, thì Sanh-ma-na-sa, vua A-si-ri, tiến đánh Sa-ma-ri và bao vây thành. 10 Sau ba năm, họ chiếm được thành. Vậy, thành Sa-ma-ri bị thất thủ vào năm thứ sáu đời trị vì của Ê-xê-chia, tức là năm thứ chín đời trị vì của Ô-sê, vua Y-sơ-ra-ên. 11 Vua A-si-ri đem dân Y-sơ-ra-ên đày qua A-si-ri, định cư họ tại Cha-la, bên bờ sông Cha-bo, thuộc vùng Gô-xan, và ở trong các thành xứ Mê-đi. 12 Việc nầy xảy ra vì họ không vâng theo lời phán của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, nhưng vi phạm giao ước Ngài. Họ không chịu nghe và cũng chẳng làm theo tất cả những gì Môi-se, đầy tớ của Đức Giê-hô-va, đã truyền cho. Người A-si-ri đe dọa xâm chiếm Giê-ru-sa-lem

13 Vào năm thứ mười bốn đời trị vì của Ê-xê-chia, San-chê-ríp, vua A-si-ri, tiến đánh và chiếm các thành kiên cố của Giu-đa. 14 Ê-xê-chia, vua Giu-đa, sai sứ đến La-ki nói với vua A-si-ri rằng: “Tôi có lỗi. Xin ngài lui binh khỏi nước tôi; ngài đòi điều gì, tôi xin chịu cả.” Vua A-si-ri buộc Ê-xê-chia, vua Giu-đa, phải nộp chín nghìn ký bạc, và chín trăm ký vàng. 15 Ê-xê-chia nộp cho vua ấy tất cả số bạc có trong đền thờ Đức Giê-hô-va, và trong các kho tàng của cung vua.

16 Bấy giờ, Ê-xê-chia phải gỡ vàng ở các cửa và cột đền thờ Đức Giê-hô-va mà chính vua đã cẩn vào, rồi đem nộp hết cho vua A-si-ri.

Người A-si-ri đe dọa xâm chiếm Giê-ru-sa-lem

17 Nhưng vua A-si-ri sai Tạt-tan, Ráp-sa-ri, và Ráp-sa-kê, đem theo một đạo quân hùng hậu từ La-ki đến Giê-ru-sa-lem gặp vua Ê-xê-chia. Chúng tiến lên Giê-ru-sa-lem. Khi tới nơi, chúng đến đứng tại cống dẫn nước ao trên, nằm trên đường cái dẫn đến cánh đồng thợ giặt. 18 Chúng yêu cầu được gặp vua. Nhưng quan quản lý cung điện là Ê-li-a-kim, con của Hinh-kia, thư ký Sép-na, và quan thái sử là Giô-a, con của A-sáp, ra tiếp chúng.

19 Ráp-sa-kê nói với họ:

“Hãy về nói lại với Ê-xê-chia rằng: Đại đế A-si-ri nói thế nầy: ‘Dựa vào đâu mà ngươi tự tin như thế? 20 Ngươi tưởng rằng chỉ những lời nói suông có thể thay thế chiến lược và sức mạnh để chiến đấu sao? Vậy bây giờ, ngươi dựa vào ai mà nổi lên chống lại ta? 21 Nầy, ngươi đang nhờ cậy vào Ai Cập chứ gì? Nhưng Ai Cập chỉ như một cây sậy dập nát mà ai vịn vào nó ắt sẽ bị đâm thủng bàn tay. Tất cả những ai nhờ cậy Pha-ra-ôn, vua Ai Cập, đều bị như thế.’22 Có thể các ngươi sẽ nói với ta rằng: ‘Chúng tôi tin cậy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng tôi. Chẳng phải chính Ê-xê-chia đã phá hủy các nơi cao và bàn thờ trên đó, rồi truyền cho Giu-đa và Giê-ru-sa-lem phải thờ lạy trước bàn thờ tại Giê-ru-sa-lem sao?’

23 Thế thì, ngươi hãy đánh cuộc với chủ ta là vua A-si-ri. Ta sẽ cho ngươi hai nghìn con ngựa nếu ngươi có thể tìm đủ kỵ binh để cưỡi. 24 Ngay cả khi ngươi cậy vào Ai Cập để có chiến xa và kỵ binh, liệu ngươi có thể đẩy lui được một tướng nhỏ nhất trong số các quan tướng của chủ ta không? 25 Hơn nữa, chẳng phải là theo ý muốn của Đức Giê-hô-va mà ta tiến đánh để hủy diệt nơi nầy sao? Chính Đức Giê-hô-va đã phán với ta: ‘Hãy tiến đánh và hủy diệt xứ nầy.’”

26 Ê-li-a-kim, con của Hinh-kia, cùng với Sép-na và Giô-a nói với Ráp-sa-kê: “Xin nói với các đầy tớ ông bằng tiếng A-ram, vì chúng tôi hiểu thứ tiếng ấy. Đừng nói với chúng tôi bằng tiếng Giu-đa, kẻo dân ở trên tường thành nghe được.”

27 Nhưng Ráp-sa-kê trả lời với họ: “Có phải chủ ta sai ta đến để chỉ nói các lời nầy với chủ ngươi và các ngươi thôi sao? Chẳng phải là để nói với những người đang ở trên vách thành kia, là những người cùng chung số phận với các ngươi, sẽ phải ăn phân và uống nước tiểu mình sao?” 28 Rồi Ráp-sa-kê đứng dậy, nói lớn tiếng bằng tiếng Giu-đa rằng: “Hãy lắng nghe lời của đại đế A-si-ri! 29 Vua nói thế nầy: ‘Đừng để cho Ê-xê-chia lừa gạt các ngươi, vì hắn không thể nào giải cứu các ngươi khỏi tay ta được đâu. 30 Cũng đừng để Ê-xê-chia dụ dỗ các ngươi tin cậy Đức Giê-hô-va khi nói rằng Đức Giê-hô-va chắc chắn sẽ giải cứu chúng ta, và không để cho thành nầy rơi vào tay của vua A-si-ri đâu.

31 Đừng nghe theo Ê-xê-chia, vì vua A-si-ri nói thế nầy: Hãy làm hòa với ta và ra đầu hàng ta thì ai nấy trong các ngươi sẽ được ăn hoa quả trong vườn nho, vườn vả của mình, và uống nước giếng mình, 32 cho tới khi ta đến đem các ngươi vào trong một xứ giống như xứ của các ngươi, tức là xứ có ngũ cốc và rượu, bánh và vườn nho, một xứ có dầu ô-liu và mật ong. Như thế, các ngươi sẽ sống và không chết đâu.

Vậy các ngươi đừng nghe Ê-xê-chia, vì hắn lừa dối các ngươi khi nói rằng Đức Giê-hô-va sẽ giải cứu chúng ta. 33 Có thần của dân tộc nào giải cứu được xứ mình khỏi tay vua A-si-ri chăng? 34 Thần của Ha-mát và thần của Ạt-bát ở đâu? Thần của Sê-phạt-va-im, thần của Hê-na và thần của Y-va ở đâu? Các thần đó có giải cứu Sa-ma-ri khỏi tay ta chăng? 35 Có thần nào trong tất cả thần của các nước đã giải cứu xứ họ khỏi tay ta được chăng? Vậy, liệu Đức Giê-hô-va có giải cứu Giê-ru-sa-lem khỏi tay ta được chăng?’”

36 Nhưng dân chúng im lặng, không đáp lại một lời, vì vua đã ra lệnh: “Các ngươi đừng đáp lại hắn.”

37 Ê-li-a-kim, con của Hinh-kia, quan quản lý cung điện, thư ký Sép-na, và quan thái sử Giô-a, con của A-sáp, xé áo mình rồi trở về thuật lại cho vua Ê-xê-chia mọi lời của Ráp-sa-kê.

Lời tiên tri về sự giải cứu thành Giê-ru-sa-lem

1 Khi nghe tin ấy, vua Ê-xê-chia liền xé áo mình, mặc áo sô và đi vào đền thờ Đức Giê-hô-va. 2 Vua sai quan quản lý cung điện là Ê-li-a-kim, thư ký Sép-na và các thầy tế lễ cao niên mặc áo sô đến gặp nhà tiên tri Ê-sai, con trai của A-mốt. 3 Họ nói với ông: “Vua Ê-xê-chia nói thế nầy: ‘Hôm nay là ngày hoạn nạn, quở phạt, và ô nhục; như đàn bà đã đến lúc phải sinh con nhưng không đủ sức để sinh. 4 Chắc Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông đã nghe tất cả những lời của Ráp-sa-kê mà chủ hắn là vua A-si-ri đã sai đến để phỉ báng Đức Chúa Trời hằng sống, và Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông sẽ trừng phạt chúng về những lời Ngài đã nghe. Vì vậy, xin ông dâng lời cầu nguyện cho những người còn sót lại đây.’”  5 Khi các đầy tớ của vua Ê-xê-chia đến gặp Ê-sai 6 thì Ê-sai nói với họ: “Các ông hãy về tâu lại với chủ mình rằng Đức Giê-hô-va phán thế nầy: ‘Đừng sợ những lời con đã nghe, là những lời mà các đầy tớ của vua A-si-ri xúc phạm đến Ta. 7 Nầy, Ta sẽ đặt một thần linh trong nó, khiến nó nghe tin đồn mà rút quân về nước. Ta sẽ làm cho nó ngã chết dưới lưỡi gươm ngay tại xứ sở nó.’”

8 Khi Ráp-sa-kê trở về thì gặp vua A-si-ri đang đánh thành Líp-na, vì ông được tin vua đã rời khỏi La-ki.

9 Bấy giờ, vua A-si-ri được tin báo về Tiệt-ha-ca, vua Cút, rằng: “Kìa, vua ấy đang kéo quân ra giao chiến với bệ hạ.” Nghe thế, vua A-si-ri lại sai các sứ giả đến gặp Ê-xê-chia, và dặn rằng: 10 “Các ngươi hãy nói với Ê-xê-chia, vua Giu-đa, rằng: ‘Đừng để Đức Chúa Trời, là Đấng mà ngươi tin cậy, lừa dối ngươi rằng Giê-ru-sa-lem sẽ không rơi vào tay vua A-si-ri đâu.’ 11 Nầy, hẳn ngươi có nghe những gì các vua A-si-ri đã làm cho tất cả các nước, chúng đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Còn ngươi, ngươi sẽ thoát được sao? 12 Thần của các nước mà cha ông ta đã tiêu diệt, tức là các thần của Gô-xan, Ha-ran, Rết-sép, và người Ê-đen ở tại Tê-la-sa, có giải cứu họ được chăng? 13 Vua của Ha-mát, vua của Ạt-bát, vua của các thành Sê-phạt-va-im, Hê-na, và Y-va ở đâu?”

Bình luận

Hãy tin tưởng vào Chúa giữa điều ác và sự khốn khổ

Cuối cùng, thật nhẹ nhõm khi đọc về một người đàn ông ‘tin cậy nơi Chúa’ (18:5). Ê-xê-chia ‘tin cậy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên’(c.5) . Ông ấy đặt trọn niềm tin vào Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Và Đức Chúa Trời, về phần Ngài, ở với vua trong mọi công việc của ông (c.5-6).

Khi Ê-xê-chia trở thành vua, một trong những hành động đầu tiên của ông là tiêu diệt tất cả những thứ ngăn cản dân chúng vâng lời Đức Chúa Trời (c.1-4). Có lẽ có những điều trong cuộc sống của bạn là rào cản ngăn cản bạn vâng lời Đức Chúa Trời. Mặc dù chúng có vẻ quan trọng, nhưng không có gì quan trọng bằng sự vâng phục Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời muốn giúp chúng ta vâng lời Ngài – hãy cầu xin Ngài và Ngài sẽ tôn trọng bạn như Ngài đã tôn trọng Ê-xê-chia: ‘Và Đức Giê-hô-va ở cùng ngươi; bất cứ điều gì ngươi làm đều được thành công ’(c.5) .

Vào năm 701 trước Công nguyên, Ê-xê-chia phải đối mặt với một kẻ thù rất mạnh dưới hình dạng là vua của A-si-ri, kẻ đã khinh thường và chế nhạo ông. Câu chuyện này không hư cấu; bạn có thể đọc về những sự kiện lịch sử này không chỉ trong Kinh thánh mà còn trong các tài liệu cổ xưa khác. Trong lời tường thuật của Sennacherib về những sự kiện này, ông viết: ‘Về phần Ê-xê-chia, người Do Thái, ông ấy không phục tùng ách thống trị của ta.’ Ông nói một cách ngạo mạn về việc Ê-xê-chia bị choáng ngợp bởi vẻ 'huy hoàng khủng khiếp của uy quyền ta’.

Sennacherib khinh bỉ sự phụ thuộc của Ê-xê-chia vào Chúa (c.20,22) : 'Đừng để Ê-xê-chia thuyết phục ngươi tin tưởng vào Chúa... ông ta đang lừa dối ngươi khi ông ta nói, "Chúa sẽ giải cứu chúng ta."'(c.30-32).

Bằng cách nào đó, chắc hẳn Ê-xê-chia đã giành được sự kính trọng của dân chúng vì họ đã làm theo chỉ dẫn của ông: ‘Nhưng dân chúng vẫn im lặng và không đáp lại điều gì, vì nhà vua đã ra lệnh: “Đừng trả lời hắn.”'(c.36)

Khi đối mặt với kẻ thù hùng mạnh của mình, Ê-xê-chia đã cầu nguyện. “Ông xé áo mình ra, mặc bao gai và đi vào đền thờ Đức Giê-hô-va” (19:1). Một phái đoàn đến gặp nhà tiên tri Ê-sai và nói với ông, ‘Vua Ê-xê-chia nói thế nầy: Hôm nay là ngày hoạn nạn, quở phạt, và ô nhục…xin ông dâng lời cầu nguyện cho những người còn sót lại đây’(c.3-4).

Câu trả lời của Ê-sai là: ‘...Đức Giê-hô-va phán thế nầy: ‘Đừng sợ những lời con đã nghe, là những lời mà các đầy tớ của vua A-si-ri xúc phạm đến Ta’ (c.6). Không những bản thân Ê-xê-chia tin cậy Chúa, mà ông còn thuyết phục dân chúng tin cậy Chúa.

Trong nhiều năm, tôi đã viết bên cạnh đoạn kinh thánh này một danh sách những thử thách mà chúng ta đã đối mặt. Thật đáng kinh ngạc khi nhìn lại những năm qua và thấy cách mà Đức Chúa Trời đã giải cứu chúng tôi trong rất nhiều lĩnh vực.

Hôm nay, bất kể thử thách nào bạn đang gặp phải, hãy viết chúng ra, đặt niềm tin vào Chúa, tin rằng Ngài sẽ ở bên bạn và ban cho bạn thành công trong bất cứ điều gì Ngài muốn bạn làm.

Cầu nguyện

Chúa ơi, cảm ơn Ngài vì đã giúp con trông cậy vào Ngài trong mọi hoàn cảnh. Hôm nay, con xin dâng tất cả thử thách mà con đang phải đối mặt lên cho Ngài … Con tin cậy vào Ngài.

Pippa chia sẻ

Hãy tin tưởng vào Chúa khi mọi thứ không như ý muốn.

Chúng ta thấy điều này một lần nữa trong 2 Các Vua 18 và trong Công vụ 27:33.

Chúa có thể xoay chuyển những gì dường như không thể.

reader

App

Tải xuống ứng dụng Kinh Thánh Trong Một Năm dành cho thiết bị iOS hoặc Android và đọc theo mỗi ngày.

reader

Email

Đăng ký ngay bây giờ để nhận Kinh thánh trong một năm trong hộp thư đến của bạn mỗi sáng. Bạn sẽ nhận được một email mỗi ngày.

reader

Website

Bắt đầu đọc sự tận tâm của ngày hôm nay ngay tại đây trên trang web BiOY.

Read now
reader

Book

Kinh thánh trong một năm bình luận có sẵn như là một cuốn sách.

Tham khảo

Corrie ten Boom, Nơi ẩn náu (Hodder & Stoughton, 2004).

Trừ khi có quy định khác, các trích dẫn Kinh thánh được lấy từ Kinh thánh, Phiên bản quốc tế mới được Anh hóa, Bản quyền © 1979, 1984, 2011 Biblica, trước đây là Hiệp hội Kinh thánh Quốc tế. Được sử dụng dưới sự cho phép của Hodder & Stoughton Publishers, một công ty của Hachette UK. Đã đăng ký Bản quyền. 'NIV' là nhãn hiệu đã đăng ký của Biblica. Nhãn hiệu Vương quốc Anh số 1448790.

Các trích dẫn Kinh thánh được đánh dấu (AMP) lấy từ Kinh thánh Amplified®, Bản quyền © 1954, 1958, 1962, 1964, 1965, 1987 của The Lockman Foundation. Được sử dụng bởi sự cho phép. (www.Lockman.org)

Thánh Kinh được đánh dấu (MSG) lấy từ The Message. Bản quyền © 1993, 1994, 1995, 1996, 2000, 2001, 2002. Được sử dụng dưới sự cho phép của NavPress Publishing Group.

This website stores data such as cookies to enable necessary site functionality and analytics. Find out more