Ngày 209

Những bàn chân xinh đẹp

Khôn ngoan Châm Ngôn 18:7-16
Tân ước Rô-ma 10:5-11:10
Cựu Ước I Sử Ký 2:18-4:8

Giới thiệu

Một đôi bạn của chúng tôi đã chờ đợi em bé suốt cả mười năm. Việc có con dường như là bất khả thi đối với họ. Bỗng một ngày nọ, tiếng chuông cửa nhà chúng tôi vang lên. Và cô bạn của tôi ở ngay đó. Mọi thứ dường như được thể hiện hết trên gương mặt cô ấy. Vừa vào nhà, cô ấy bắt đầu nhảy cẫng lên, dậm chân một cách vui vẻ và hân hoan để báo tin vui cho chúng tôi. Cô ấy đã mang thai. Sự chờ đợi của họ đã kết thúc. Cô ấy đang mang một tin mừng trong chính cơ thể mình. Không gì thú vị hơn khi được làm người mang tin mừng.

Bạn cũng là người mang tin mừng. Sứ điệp của Chúa Giê-su ở trong bạn. Đó là lý do tại sao, theo lời sứ đồ Phao-lô, bạn có bàn chân xinh đẹp (Rô-ma 10:15).

Là những người theo Chúa, tất cả chúng ta đều được kêu gọi để chia sẻ tin mừng về Chúa Giê-su. Một số người trong chúng ta có đặc ân to lớn, đó là được kêu gọi để làm việc đó như một công việc toàn thời gian. Trở lại tháng 1 năm 1978, khi còn làm trong ngành luật, tôi đã từng viết trong nhật ký cầu nguyện của mình rằng:

"Tôi ao ước được dành toàn bộ thời gian của mình để rao giảng Tin Mừng – nói với mọi người về tình yêu của Chúa Giê-su. Nhưng Rô-ma 10:15 có nói: "Nếu chẳng có ai được sai đi thì làm sao rao giảng?" Tôi không thể và sẽ không bao giờ có thể rao giảng Phúc Âm, trừ khi tôi được Chúa sai đi làm việc đó – đây thật là một sự kêu gọi tuyệt vời. "Bàn chân của những người truyền rao Tin Lành thật xinh đẹp biết bao!"

Trọng tâm của tin mừng đó là sự công chính đến từ đức tin (c.6). "Ai kêu cầu danh Chúa đều sẽ được cứu" (c.13).

Khôn ngoan

Châm Ngôn 18:7-16

 7 Miệng kẻ ngu dại làm nó suy sụp,
  Môi nó là cạm bẫy của linh hồn mình.
 8 Lời kẻ mách lẻo như miếng ăn ngon,
  Nó thấu xuống ruột gan.
 9 Kẻ thả trôi trong công việc mình
  Cũng là anh em của kẻ phá hoại.
 10 Danh Đức Giê-hô-va là một pháo đài kiên cố,
  Người công chính chạy đến đó, tìm được nơi trú ẩn an toàn.
 11 Tài sản người giàu là thành trì kiên cố của người,
  Là bức tường cao trong trí tưởng tượng của người ấy.
 12 Lòng tự cao đi trước sự suy bại,
  Nhưng sự khiêm nhường đi trước sự tôn trọng.
 13 Trả lời trước khi nghe,
  Đó là sự điên dại và hổ thẹn cho ai làm như vậy.
 14 Tinh thần của một người nâng đỡ người ấy lúc bệnh hoạn,
  Nhưng tinh thần suy sụp thì ai vực dậy được?
 15 Lòng người thông sáng đón nhận tri thức,
  Tai người khôn ngoan tìm kiếm sự hiểu biết.
 16 Tặng vật của một người dọn đường cho người ấy
  Và dẫn người đến trước mặt kẻ quyền thế.

Bình luận

Chạy đến với Chúa

Phân đoạn này trong Châm Ngôn chứa đầy sự khôn ngoan mang tính thực tế. Chúng ta cần canh giữ môi miệng của mình: "Miệng kẻ ngu dại làm nó suy sụp, môi nó là cạm bẫy của linh hồn mình" (c.7). Những câu chuyện phiếm rất hấp dẫn, nhưng nó cần được tránh: "Lời kẻ mách lẻo như miếng ăn ngon, nó thấu xuống ruột gan" (c.8).

Chúng ta cần phải làm việc chăm chỉ và không được lười biếng: "Kẻ thả trôi trong công việc mình cũng là anh em của kẻ phá hoại" (c.9). Thật ngu ngốc khi dựa vào của cải: "Tài sản người giàu là thành trì kiên cố của người, là bức tường cao trong trí tưởng tượng của người ấy" (c.11). Kiêu ngạo dẫn đến sa ngã: "Lòng tự cao đi trước sự suy bại" (c.12a). "Nhưng sự khiêm nhường đi trước sự tôn trọng" (c.12b).

Ngoài ra, còn có một lời khuyên rất hay dành cho những người hướng dẫn hoặc trợ giúp của các khoá Alpha: "Trả lời trước khi nghe, đó là sự điên dại và hổ thẹn cho ai làm như vậy" (c.13). "Lòng người thông sáng đón nhận tri thức, tai người khôn ngoan tìm kiếm sự hiểu biết" (c.15).

Giữa tất cả những lời khuyên thiết thực này, có một câu liên quan trực tiếp đến chủ đề ngày hôm nay: "Danh Đức Giê-hô-va là một pháo đài kiên cố, người công chính chạy đến đó, tìm được nơi trú ẩn an toàn" (c.10). Không phải tất cả đều được an toàn. Chỉ những ai chạy đến pháo đài kiên cố, tức là "Danh Đức Giê-hô-va", mới được cứu.

Ngay cả trong phân đoạn này, chúng ta cũng thấy được cội nguồn của sự dạy dỗ trong Tân Ước, rằng ai kêu cầu danh Chúa thì sẽ được cứu.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, ngày hôm nay, xin giúp con giữ môi miệng mình, cẩn thận trong lời nói, làm việc chăm chỉ và hạ mình để trông cậy nơi Ngài. Tạ ơn Chúa vì Danh Chúa là một pháo đài vững chắc và là nơi an toàn cho tất cả những ai chạy đến đó.

Tân ước

Rô-ma 10:5-11:10

10 Môi-se viết về sự công chính đến từ luật pháp rằng ai làm theo những điều nầy thì sẽ nhờ đó mà sống. 6 Nhưng sự công chính đến từ đức tin nói thế nầy: “Đừng nói trong lòng mình rằng: ‘Ai sẽ lên trời?’ với hàm ý là để đem Đấng Christ xuống; 7 hay là: ‘Ai sẽ xuống vực sâu?’ với hàm ý là để đem Đấng Christ từ cõi chết lên.” 8 Nhưng lời ấy nói gì?

“Đạo ở gần anh em,
Trên môi miệng và trong lòng anh em,”

Đó là đạo đức tin mà chúng tôi giảng dạy. 9 Vậy nếu miệng anh em xưng Đức Chúa Jêsus là Chúa, và lòng anh em tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ cõi chết sống lại thì anh em sẽ được cứu. 10 Vì ai tin trong lòng thì được xưng công chính, ai tuyên xưng nơi miệng thì được cứu rỗi. 11 Kinh Thánh nói: “Người nào tin Ngài sẽ không bị hổ thẹn.” 12 Không có sự phân biệt giữa người Do Thái và người Hi Lạp, vì cùng chung một Chúa là Chúa của mọi người, Đấng ban ơn dư dật cho mọi người kêu cầu Ngài. 13 Vì, “ai kêu cầu danh Chúa đều sẽ được cứu.”

14 Nhưng họ chưa tin Ngài thì kêu cầu sao được? Chưa nghe nói về Ngài thì làm thể nào mà tin? Không có người rao giảng thì nghe cách nào? 15 Nếu chẳng có ai được sai đi thì làm sao rao giảng? Như có lời chép: “Bàn chân của những người truyền rao Tin Lành thật xinh đẹp biết bao!” 16 Nhưng không phải mọi người đều vâng theo Tin Lành đâu; chính Ê-sai đã nói: “Lạy Chúa, ai chịu tin lời chúng con rao giảng?” 17 Như vậy, đức tin đến từ những điều người ta nghe, mà người ta nghe là khi lời của Đấng Christ được rao giảng. 18 Nhưng tôi xin hỏi: Có phải là họ chưa được nghe không? Thực ra thì họ đã nghe, vì:

“Tiếng của các sứ giả đã vang ra khắp đất,
Và lời của họ đã truyền đến tận cùng thế giới.”

19 Tôi lại hỏi: Phải chăng dân Y-sơ-ra-ên không hiểu? Trước hết, Môi-se đã nói: “Ta sẽ làm cho các ngươi ganh tị với những dân không phải là dân;
Ta sẽ làm cho các ngươi tức giận với một dân ngu dốt.”

20 Ê-sai lại mạnh dạn nói rằng:
“Những người không tìm kiếm Ta thì đã gặp được Ta;
Ta đã tỏ mình ra cho những người chẳng cầu hỏi Ta.”

21 Nhưng về dân Y-sơ-ra-ên, Ngài phán: “Suốt ngày Ta dang tay hướng về một dân bất tuân và ngoan cố.”

Lòng khoan nhân của Đức Chúa Trời đối với dân Y-sơ-ra-ên

11 Vậy tôi xin hỏi, Đức Chúa Trời có từ bỏ dân Ngài không? Chẳng hề như vậy! Vì chính tôi là người Y-sơ-ra-ên, dòng dõi Áp-ra-ham, thuộc bộ tộc Bên-gia-min. 2 Đức Chúa Trời không hề từ bỏ dân Ngài là dân mà Ngài đã biết trước. Anh em có biết Kinh Thánh chép về chuyện Ê-li đã phàn nàn dân Y-sơ-ra-ên trước mặt Đức Chúa Trời như thế nào không? 3 “Lạy Chúa, họ đã giết các nhà tiên tri Ngài, hủy phá bàn thờ Ngài; chỉ còn lại một mình con, và họ cũng tìm giết con.” 4 Nhưng Đức Chúa Trời đáp lại ông thế nào? “Ta đã để dành cho Ta bảy nghìn người nam chẳng hề quỳ gối trước thần Ba-anh.” 5 Ngày nay cũng vậy, có một phần còn sót lại được lựa chọn bởi ân điển. 6 Nhưng nếu bởi ân điển thì không cần đến việc làm nữa; nếu không, ân điển không còn là ân điển.

7 Vậy thì sao? Dân Y-sơ-ra-ên đã không đạt được điều mình tìm kiếm. Những người được chọn thì đã đạt được, nhưng số còn lại thì trở nên cứng lòng, 8 như có lời chép rằng:
“Đức Chúa Trời đã cho họ một tâm linh mê muội,
Mắt mù, tai điếc, cho đến ngày nay.”

9 Đa-vít còn nói:
“Mong cho bàn tiệc của họ trở thành cạm bẫy và lưới bủa,
Đá vấp chân và sự báo ứng cho họ;
10 Ước gì mắt họ bị mù để không còn thấy được,
Và lưng họ cứ mãi cong khom!”

Bình luận

Kêu cầu Chúa

Năm 18 tuổi, hai tháng sau khi tôi trở thành Cơ Đốc nhân, tôi vinh dự được chia sẻ cho một người tin mừng về Chúa Giê-su, và rồi anh ấy đã tin. Cuộc sống của anh ấy, cũng như của tôi, đã thay đổi vào ngày hôm đó.

Bạn có nhớ lần đầu tiên bạn thấu hiểu được tin mừng về Chúa Giê-su và tin nhận Ngài không? Bạn đã bao giờ nói với người khác về thông điệp của Chúa Giê-su và rồi họ đồng ý tin nhận chưa?

Lời tuyên bố trong Tân Ước thật sự choáng ngợp. Danh Chúa trong Cựu Ước rất thiêng liêng, đến nỗi không ai dám thốt ra trên môi. Còn ngày đây, chúng ta biết danh Chúa là Giê-su. Chúng ta không chỉ có thể nhắc đến Danh Ngài trên môi miệng mình, mà khi chúng ta tin nơi Ngài và kêu cầu Ngài, chúng ta còn được "cứu" (10:9–10).

Sứ điệp Cơ Đốc giáo vừa mang tính độc nhất, vì Chúa Giê-su là Danh duy nhất được ban cho sự cứu rỗi của chúng ta, vừa mang tính rộng rãi, vì mọi người trên thế giới này đều có thể kêu cầu Danh Ngài.

Tất cả chúng ta đều có thể dễ dàng đến với Chúa Giê-su. "‘Ai sẽ lên trời?’ với hàm ý là để đem Đấng Christ xuống; hay là: ‘Ai sẽ xuống vực sâu?’ với hàm ý là để đem Đấng Christ từ cõi chết lên." Phao-lô nói tiếp:

"Đạo ở gần anh em,
Trên môi miệng và trong lòng anh em" (c.6–8).

Điều quan trọng đó là không phải chỉ tin ở trong lòng, mà bạn còn phải thực sự nói ra điều đó: "Vậy nếu miệng anh em xưng Đức Chúa Jêsus là Chúa, và lòng anh em tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ cõi chết sống lại thì anh em sẽ được cứu. Vì ai tin trong lòng thì được xưng công chính, ai tuyên xưng nơi miệng thì được cứu rỗi" (c.9–10).

Chẳng hạn như điều tôi thường thấy ở Alpha, có điều gì đó sẽ xảy đến với một người, một sự thay đổi sẽ diễn ra, khi lần đầu tiên người đó "xưng nhận" bằng "miệng" của mình rằng: "Bây giờ tôi là một Cơ đốc nhân."

Phao-lô muốn nhấn mạnh rằng khi nói đến sự cứu rỗi, "Không có sự phân biệt giữa người Do Thái và người Hi Lạp" (c.12a). "Vì cùng chung một Chúa là Chúa của mọi người, Đấng ban ơn dư dật cho mọi người kêu cầu Ngài. Vì, “ai kêu cầu danh Chúa đều sẽ được cứu.”" (c.12b–13).

Vì vậy, điều quan trọng hơn cả đó là chúng ta phải rao truyền tin mừng về Chúa Giê-su cho mọi người. Người ta không thể kêu cầu danh Chúa trừ khi họ tin. Họ không thể tin trừ khi họ nghe. Họ không thể nghe trừ khi có ai đó nói cho họ. Và sẽ không có ai nói cho họ trừ khi những người đó được sai đi (c.14–15). Thật là một đặc ân tuyệt vời khi được sai đi để chia sẻ với mọi người. "Bàn chân của những người truyền rao Tin Lành thật xinh đẹp biết bao!" (c.15).

Chỉ riêng việc trở thành một thành viên của dân Y-sơ-ra-ên thôi thì chưa đủ (tương tự như hiện nay, việc sinh ra ở một quốc gia theo Cơ Đốc giáo thôi là chưa đủ). Phao-lô đã chứng minh điều này bằng cách trích dẫn lời của Môi-se và Ê-sai. Không phải tất cả đều tin. Một số thì bất tuân và ngoan cố (c.21).

Câu trả lời cho câu hỏi "Đức Chúa Trời có từ bỏ dân Ngài không?" là "Không, không, không" (11:1–4). Sự từ bỏ đối với của Y-sơ-ra-ên chỉ là một phần. Luôn có và sẽ luôn có phần còn lại. Phao-lô chính là một ví dụ về lẽ thật đó (c.1).

Phao-lô đề cập đến lời Ê-li (người rất đau buồn sau sự việc tại núi Cạt-mên) đã nói: "chỉ còn lại một mình con." Nhưng Đức Chúa Trời phán: '"Ta đã để dành cho Ta bảy nghìn người nam chẳng hề quỳ gối trước thần Ba-anh." Tất cả đều là ân điển (c.6). Phao-lô nói: "Ngày nay cũng vậy, có một phần còn sót lại được lựa chọn bởi ân điển. Nhưng nếu bởi ân điển thì không cần đến việc làm nữa; nếu không, ân điển không còn là ân điển" (c.5–6).

Cầu nguyện

Lạy Chúa, tạ ơn Chúa vì ai kêu cầu Danh Chúa thì sẽ được cứu. Tah ơn Chúa vì không có đặc ân nào lớn hơn việc được sai đi để chia sẻ về Ngài cho người khác. Xin giúp chúng con dấy lên và xin Ngài sai đi những người có thể mang tin mừng đến cho người Do Thái và cũng như người ngoại.

Cựu Ước

I Sử Ký 2:18-4:8

Dòng dõi của Ca-lép, Hết-rôn, và Giê-rác-mê-ên

2 Ca-lép, con của Hết-rôn, lấy vợ là A-xu-ba và Giê-ri-ốt; sinh các con là Giê-se, Sô-báp, và Ạt-đôn. 19 Khi A-xu-ba qua đời, Ca-lép lấy Ê-phơ-rát; bà nầy sinh cho ông một người con tên Hu-rơ. 20 Hu-rơ sinh U-ri, U-ri sinh Bết-sa-lê-ên.

21 Sau đó, khi Hết-rôn đã được sáu mươi tuổi thì cưới con gái của Ma-ki là cha của Ga-la-át; ông ăn ở với nàng và sinh được Sê-gúp. 22 Sê-gúp sinh Giai-rơ, là người có hai mươi ba thành trong xứ Ga-la-át. 23 Dân Ghê-su-rơ và dân Sy-ri chiếm các thành Giai-rơ và Kê-nát, cùng với các vùng phụ cận gồm sáu mươi thành. Tất cả những người ấy đều là con cháu Ma-ki, cha của Ga-la-át. 24 Sau khi Hết-rôn qua đời tại Ca-lép Ép-ra-ta, vợ của Hết-rôn là A-bi-gia sinh cho ông một người con là A-su-rơ, cha của Thê-cô-a.

25 Giê-rác-mê-ên, con trưởng nam của Hết-rôn, sinh Ram là con đầu lòng, kế đến là Bu-na, Ô-ren, Ô-xem, và A-hi-gia. 26 Giê-rác-mê-ên lại lấy vợ khác, tên là A-ta-ra, mẹ của Ô-nam. 27 Các con của Ram, con trưởng nam của Giê-rác-mê-ên, là Ma-ách, Gia-min, và Ê-ke. 28 Các con của Ô-nam là Sa-mai và Gia-đa. Các con của Sa-mai, là Na-đáp và A-bi-su. 29 Vợ của A-bi-su tên là A-bi-hai, nàng sinh cho ông ấy hai con trai là Ạc-ban và Mô-lít. 30 Các con của Na-đáp là Sê-le và Áp-pa-im. Nhưng Sê-le qua đời, không có con. 31 Con của Áp-pa-im là Di-si. Con của Di-si là Sê-san. Con của Sê-san là Ạc-lai. 32 Các con của Gia-đa, em Sa-mai, là Giê-the và Giô-na-than; Giê-the qua đời, không có con. 33 Các con của Giô-na-than là Phê-lết và Xa-xa. Đó là con cháu của Giê-rác-mê-ên.

34 Sê-san không có con trai, chỉ có con gái; ông cũng có một người đầy tớ Ai Cập, tên là Gia-ra. 35 Sê-san gả con gái mình cho người đầy tớ ấy, và nàng sinh Ạt-tai. 36 Ạt-tai sinh Na-than, Na-than sinh Xa-bát, 37 Xa-bát sinh Ép-la, Ép-la sinh Ô-bết, 38 Ô-bết sinh Giê-hu, Giê-hu sinh A-xa-ria, 39 A-xa-ria sinh Hê-lết, Hê-lết sinh Ê-la-xa, 40 Ê-la-xa sinh Sít-mai, Sít-mai sinh Sa-lum, 41 Sa-lum sinh Giê-ca-mia, Giê-ca-mia sinh Ê-li-sa-ma.

42 Các con của Ca-lép, em của Giê-rác-mê-ên, là Mê-sa, con trưởng nam, tổ phụ của Xíp, và Ma-rê-sa, tổ phụ của Hếp-rôn. 43 Các con của Hếp-rôn là Cô-ra, Táp-bua, Rê-kem, và Sê-ma. 44 Sê-ma sinh Ra-cham, tổ phụ của Giô-kê-am; còn Rê-kem sinh Sa-mai. 45 Con của Sa-mai là Ma-ôn; Ma-ôn là tổ phụ của Bết-sua. 46 Ê-pha, nàng hầu của Ca-lép, sinh Ha-ran, Một-sa, và Ga-xe. Ha-ran sinh và đặt tên con trai theo tên em mình là Ga-xe. 47 Các con của Gia-đai là Rê-ghem, Giô-than, Ghê-san, Phê-lết, Ê-pha, và Sa-áp. 48 Một nàng hầu khác của Ca-lép là Ma-a-ca sinh Sê-be và Ti-ra-na. 49 Nàng cũng sinh Sa-áp là tổ phụ của Mát-ma-na, và Sê-va là tổ phụ của Mác-bê-na và Ghi-bê-a. Con gái Ca-lép là Ạc-sa.

50 Đây là những con cháu của Ca-lép: Hu-rơ, con trưởng nam của Ê-phơ-rát, sinh các con trai: Sô-banh là người sáng lập Ki-ri-át Giê-a-rim, 51 Sanh-ma là người sáng lập Bết-lê-hem, Ha-rép là người sáng lập Bết Ga-đe. 52 Sô-banh là người sáng lập Ki-ri-át Giê-a-rim có con cháu là Ha-rô-ê và một nửa dân Mê-nu-hốt.

53 Các dòng dõi tại Ki-ri-át Giê-a-rim là dân Dít-rít, Phu-tít, Su-ma-tít, và Mích-ra-ít; cũng bởi những dòng dõi ấy mà có các dân Xô-ra-tít và Ếch-tao-lít. 54 Con cháu của Sanh-ma tại Bết-lê-hem là dân Nê-tô-pha-tít, dân Ạt-rốt Bết Giô-áp, một nửa dân Ma-na-ha-tít, và dân Xô-rít. 55 Các gia tộc của những người chép kinh ở Gia-bết là gia tộc Ti-ra-tít, gia tộc Si-ma-tít, và gia tộc Su-ca-tít. Đó là dân Kê-nít, dòng dõi của Ha-mát, tổ tiên của nhà Rê-cáp.

Dòng dõi vua Đa-vít

3 Đây là các con của vua Đa-vít sinh tại Hếp-rôn: Con trưởng nam là Am-nôn con của A-hi-nô-am, người Gít-rê-ên; con thứ nhì là Đa-ni-ên con của A-bi-ga-in, người Cạt-mên; 2 con thứ ba là Áp-sa-lôm, con của Ma-a-ca, con gái của Thanh-mai, vua xứ Ghê-su-rơ; con thứ tư là A-đô-ni-gia, con của Ha-ghít; 3 con thứ năm là Sê-pha-tia, con của A-bi-tanh; con thứ sáu là Dít-rê-am, con của Éc-la, vợ Đa-vít. 4 Sáu người con nầy sinh tại Hếp-rôn, nơi Đa-vít trị vì bảy năm sáu tháng. Còn tại Giê-ru-sa-lem, Đa-vít trị vì ba mươi ba năm.

5 Đây là các con của Đa-vít sinh tại Giê-ru-sa-lem: Si-mê-a, Sô-báp, Na-than, và Sa-lô-môn; bốn người con nầy đều do bà Bát Sê-ba, con gái của A-mi-ên, sinh cho Đa-vít. 6 Ngoài ra Đa-vít còn có các con trai khác là Díp-kha, Ê-li-sua, Ê-li-phê-lết, 7 Nô-ga, Nê-phết, Gia-phia, 8 Ê-li-sa-ma, Ê-li-gia-đa, và Ê-li-phê-lết; tất cả là chín người. 9 Đó là các con trai của Đa-vít, chưa kể các con trai của những cung phi; và Ta-ma là chị em của họ.

10 Con của Sa-lô-môn là Rô-bô-am, con của Rô-bô-am là A-bi-gia, con của A-bi-gia là A-sa, con của A-sa là Giô-sa-phát, 11 con của Giô-sa-phát là Giô-ram, con của Giô-ram là A-cha-xia, con của A-cha-xia là Giô-ách, 12 con của Giô-ách là A-ma-xia, con của A-ma-xia là A-xa-ria, con của A-xa-ria là Giô-tham, 13 con của Giô-tham là A-cha, con của A-cha là Ê-xê-chia, con của Ê-xê-chia là Ma-na-se, 14 con của Ma-na-se là A-môn, con của A-môn là Giô-si-a.

15 Các con của Giô-si-a: Con trưởng nam là Giô-ha-nan, con thứ nhì là Giê-hô-gia-kim, con thứ ba là Sê-đê-kia, con thứ tư là Sa-lum. 16 Các con của Giê-hô-gia-kim là Giê-chô-nia và Sê-đê-kia. 17 Các con của Giê-chô-nia, người bị lưu đày, là: Sa-anh-thi-ên, 18 Manh-ki-ram, Phê-đa-gia, Sê-na-xa, Giê-ca-mia, Hô-sa-ma, và Nê-đa-bia. 19 Các con của Phê-đa-gia là Xô-rô-ba-bên và Si-mê-i. Các con của Xô-rô-ba-bên là Mê-su-lam và Ha-na-nia; còn Sê-lô-mít là chị em của họ. 20 Cũng có các người con khác là Ha-su-ba, Ô-hên, Bê-rê-kia, Ha-sa-đia, Du-sáp Hê-sết; tất cả là năm người. 21 Các con của Ha-na-nia là Phê-la-tia và Ê-sai; cũng có các con của Rê-pha-gia, Ạc-nan, Ô-ba-đia, và Sê-ca-nia. 22 Con của Sê-ca-nia là Sê-ma-gia. Các con của Sê-ma-gia là: Hát-túc, Di-ganh, Ba-ria, Nê-a-ria, và Sa-phát; tất cả là sáu người. 23 Các con của Nê-a-ria là: Ê-li-ô-ê-nai, Hê-xê-chia, và A-ri-kham; tất cả là ba người. 24 Các con của Ê-li-ô-ê-nai là: Hô-đa-via, Ê-li-a-síp, Phê-la-gia, A-cúp, Giô-ha-nan, Đê-la-gia, và A-na-ni; tất cả là bảy người.

Dòng dõi Giu-đa

4 Các con của Giu-đa là: Phê-rết, Hết-rôn, Cạt-mi, Hu-rơ và Sô-banh. 2 Rê-a-gia, con trai Sô-banh, sinh Gia-hát; Gia-hát sinh A-hu-mai và La-hát. Đó là các gia tộc của dân Xô-ra-tít.

3 Đây là những người sáng lập Ê-tam: Gít-rê-ên, Dít-ma và Dít-bát; em gái của họ là Ha-sê-lê-pô-ni. 4 Lại có Phê-nu-ên, người sáng lập Ghê-đô, và Ê-xe, người sáng lập Hu-sa. Đó là con cháu của Hu-rơ, con trưởng nam của Ê-phơ-rát, người sáng lập Bết-lê-hem.

5 A-su-rơ, người sáng lập Thê-cô-a, lấy hai vợ là Hê-lê-a và Na-a-ra. 6 Na-a-ra sinh A-hu-xam, Hê-phe, Thê-mê-ni, và A-hách-tha-ri. Đó là các con của Na-a-ra. 7 Các con của Hê-lê-a là: Xê-rết, Dít-sê-ha, và Ết-nan. 8Cốt sinh A-núp, Hát-xô-bê-ba, và gia tộc A-ha-hên, con Ha-rum.

Bình luận

Đặt niềm tin nơi Chúa

Đức Chúa Trời tạo dựng chúng ta để chúng ta sống trong mối quan hệ với Ngài. Trước khi tìm được mối quan hệ đó, cuộc sống của chúng ta sẽ luôn thiếu vắng một điều gì đó.

Chúa yêu bạn và muốn bạn tìm thấy sự thỏa lòng và mục đích ở trong mối quan hệ với Ngài. Đó là lý do tại sao việc thờ phượng Chúa lại là trọng tâm của đời sống chúng ta và là điểm mấu chốt của cả sách Sử Ký. Trung tín thờ phượng là điều quan trọng nhất.

Chúa luôn thành tín với bạn. Ngài kêu gọi bạn cũng hãy trung tín với Ngài. Còn sự bất trung sẽ dẫn đến nhiều vấn đề khác.

Vị biên niên sử tiếp tục phần giới thiệu của mình với dân Y-sơ-ra-ên. Danh sách các vua Giu-đa (3:10-16) gần giống như mục lục của các sách. Phần lớn I Sử Ký dành cho Vua Đa-vít - người được xem là tấm gương về sự thờ phượng đích thực và lòng trung tín với Đức Chúa Trời.

Một trong những chủ đề lớn của Sử Ký là tầm quan trọng của đức tin nơi Chúa. Ông sắp cho chúng ta thấy rằng không phải tất cả dân Y-sơ-ra-ên đều trung tín.

Đôi khi bạn có thể cảm thấy rất lẻ loi và cô đơn. Xung quanh bạn dường như không có nhiều tín đồ. Nhưng vẫn luôn còn đâu đó những người đặt niềm tin của mình nơi Chúa.

Đây là một trong những thông điệp chính xuyên suốt Sách Sử Ký. "Hãy tin cậy Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi thì các ngươi sẽ được vững vàng; hãy tin các nhà tiên tri của Ngài thì các ngươi sẽ được thành công" (II Sử ký 20:20).

Cầu nguyện

Lạy Chúa, tạ ơn Chúa vì Ngài vẫn luôn giữ lại một phần nào đó. Xin giúp chúng con đừng nản lòng mà tiếp tục truyền rao tin mừng của Chúa Giê-su.

Pippa chia sẻ

Rô-ma 10:13 có chép:

"Ai kêu cầu danh Chúa đều sẽ được cứu."

Chỉ đơn giản như vậy thôi.

reader

App

Tải xuống ứng dụng Kinh Thánh Trong Một Năm dành cho thiết bị iOS hoặc Android và đọc theo mỗi ngày.

reader

Email

Đăng ký ngay bây giờ để nhận Kinh thánh trong một năm trong hộp thư đến của bạn mỗi sáng. Bạn sẽ nhận được một email mỗi ngày.

reader

Website

Bắt đầu đọc sự tận tâm của ngày hôm nay ngay tại đây trên trang web BiOY.

Read now
reader

Book

Kinh thánh trong một năm bình luận có sẵn như là một cuốn sách.

Tham khảo

Unless otherwise stated, Scripture quotations taken from the Holy Bible, New International Version Anglicised, Copyright © 1979, 1984, 2011 Biblica, formerly International Bible Society. Used by permission of Hodder & Stoughton Publishers, an Hachette UK company. All rights reserved. ‘NIV’ is a registered trademark of Biblica. UK trademark number 1448790.

Scripture marked (MSG) taken from The Message. Copyright © 1993, 1994, 1995, 1996, 2000, 2001, 2002. Used by permission of NavPress Publishing Group.

This website stores data such as cookies to enable necessary site functionality and analytics. Find out more