Ngừng sống cẩu thả
Giới thiệu
Tôi thích chơi thể thao. Tôi chưa bao giờ giỏi, nhưng tôi rất thích. Tôi không chơi với nhiều người chơi bóng quần giỏi và cao cấp; tất cả đều rất thân thiện và thoải mái nhưng chúng tôi rất cạnh tranh! Ngay cả trình độ mà chúng tôi thi đấu cũng được yêu cầu ‘huấn luyện nghiêm ngặt’. Tôi phải tập luyện và thi đấu thường xuyên. Đó là một trong những lý do khiến tôi cố gắng cẩn thận về những gì mình ăn và ngủ.
Sứ đồ Phao-lô viết: ‘Anh em không biết rằng trong cuộc chạy đua ở thao trường, tất cả đều chạy nhưng chỉ có một người đoạt giải sao? Vậy, hãy chạy thế nào để anh em có thể đoạt giải. Tất cả các vận động viên phải tự kỷ luật trong mọi sự. Họ chịu vậy để được mão miện hay hư nát. Nhưng chúng ta chịu vậy để được mão miện không hay hư nát' (I Cô-rinh-tô 9:24–25).
Nếu những người thi đấu thể thao phải tập luyện nghiêm ngặt để đạt được điều gì đó 'không tồn tại lâu dài', thì chúng ta phải 'huấn luyện nghiêm ngặt' trong đời sống đạo đức và tâm linh của mình đến mức nào để 'được mão miện không hay hư nát' (c.25).
Phao-lô viết, 'Cũng vậy, tôi chạy, chẳng phải là chạy không mục đích; tôi đánh, chẳng phải là đánh vào không khí. Nhưng tôi đãi thân thể tôi cách nghiêm khắc, bắt nó phải phục, e rằng sau khi tôi giảng dạy cho người khác, mà chính mình lại bị loại bỏ chăng.' (c.26-27). Thờ phượng và phục vụ Chúa là mục đích và hoài bão trong cuộc đời của Phao-lô. Ông muốn làm điều đó với hết khả năng của mình. Ông muốn đặt hết tâm huyết, công sức và khả năng của mình vào sứ mệnh đó. Ông đang đi tìm vàng.
Thờ phượng và phục vụ có mối liên hệ rất chặt chẽ (cùng một từ latreuo trong tiếng Hy Lạp được sử dụng cho cả hai). Tất cả con người đều là những người thờ phượng. Bạn có thể tôn thờ một Đức Chúa Trời thực sự, hoặc một ai đó hoặc một cái gì đó khác. Tất cả con người đều là tôi tớ – cho Chúa, cho chính bạn hoặc cho ai đó hoặc cái gì khác.
Trong các đoạn kinh thánh hôm nay, chúng ta thấy tầm quan trọng của việc thờ phượng và phục vụ một Đức Chúa Trời chân thật bằng cả tấm lòng và con người của mình - cho đi tất cả những gì chúng ta có - không sống dặt dẹo.
Thi Thiên 97:1-12
Quyền cai trị tối cao của Đức Giê-hô-va
1Đức Giê-hô-va cai trị! Hỡi trái đất, hãy mừng rỡ!
Hỡi muôn vàn hải đảo, hãy vui vẻ!
2Mây và bóng tối dày đặc vây quanh Ngài,
Sự công chính và công lý làm nền móng cho ngôi Ngài.
3Lửa bay ra trước mặt Ngài
Và thiêu đốt hết kẻ thù chung quanh.
4Tia chớp của Ngài soi sáng thế gian;
Trái đất nhìn thấy và rúng động.
5Các núi tan chảy như sáp trước mặt Đức Giê-hô-va,
Trước mặt Chúa của cả địa cầu.
6Các tầng trời rao truyền sự công chính Ngài,
Muôn dân chiêm ngưỡng vinh quang Ngài.
7Nguyện tất cả kẻ thờ hình tượng,
Và những kẻ khoe khoang về hình tượng đều bị hổ thẹn.
Hỡi các thần, hãy thờ lạy Đức Giê-hô-va!
8Lạy Đức Giê-hô-va, Si-ôn nghe và hoan hỉ,
Các con gái Giu-đa đều nức lòng mừng rỡ,
Vì sự phán xét của Ngài.
9Vì Đức Giê-hô-va ôi! Ngài là Đấng Chí Cao trên cả trái đất,
Ngài được tôn cao vượt trên tất cả các thần.
10Hỡi những người yêu mến Đức Giê-hô-va, hãy ghét điều ác.
Ngài bảo vệ linh hồn các thánh của Ngài
Và giải cứu họ khỏi tay kẻ ác.
11Ánh sáng chiếu rọi người công chính
Và niềm vui tràn ngập trong lòng người ngay thẳng.
12Hỡi người công chính, hãy vui mừng nơi Đức Giê-hô-va!
Và cảm tạ danh thánh của Ngài.
Bình luận
Tại sao chúng ta thờ phượng và phục vụ?
Chúa chịu trách nhiệm về vũ trụ của Ngài. ‘Đức Giê-hô-va cai trị!’ (c.1). Nếu Chúa không cai trị thì sự sống sẽ chẳng có ý nghĩa gì – nhưng Ngài ngự trị và có lý do để vui mừng (c.1).
Tác giả Thi Thiên kêu gọi mọi loài thọ tạo 'hãy thờ lạy Đức Giê-hô-va!' (c.7, Bản diễn ý).
Ông ca ngợi Chúa – trước hết là vì chính Ngài, và thứ hai là vì những gì Ngài đã làm. Chính vì bản chất Đức Chúa Trời nên Ngài hành động để mang lại sự bảo vệ, giải cứu, dẫn dắt và niềm vui cho dân Ngài (c.10–12).
- Chúa là Đấng bảo vệ bạn
Ngài bảo vệ mạng sống của bạn: ‘Hỡi những người yêu mến Đức Giê-hô-va, hãy ghét điều ác. Ngài bảo vệ linh hồn các thánh của Ngài và giải cứu họ khỏi tay kẻ ác’ (c.10b).
- Chúa là Đấng giải cứu bạn
Ngài giải cứu bạn khỏi tay kẻ ác (c.10c). Ngài giải thoát bạn khỏi quyền lực kẻ ác (c.10c).
- Chúa là Đấng hướng dẫn bạn
Ngài soi sáng cho bạn. Ngài hướng dẫn và phán xét, mở mắt bạn (c.11a).
- Chúa là niềm vui của bạn
Ngài ban niềm vui để bạn có thể vui mừng trong Ngài và ca ngợi danh thánh của Ngài (c.11b,12) – ‘Ánh sáng chiếu rọi người công chính và niềm vui tràn ngập trong lòng người ngay thẳng’ (c.11).
Vì vậy ông kết luận, ‘Hỡi người công chính, hãy vui mừng nơi Đức Giê-hô-va! Và cảm tạ danh thánh của Ngài' (c.12).
Cầu nguyện
Lạy Chúa, cảm ơn Chúa vì Chúa là Đấng bảo vệ, Đấng giải cứu, Đấng hướng dẫn và niềm vui của con.
I Cô-rinh-tô 9:19-10:13
Những điều Phao-lô từ bỏ
19Dù rằng với mọi người, tôi là người tự do, nhưng tôi đã tự trở thành nô lệ cho mọi người để có thể chinh phục thêm nhiều người. 20Với người Do Thái, tôi trở nên như một người Do Thái để chinh phục được người Do Thái. Với những người ở dưới luật pháp — dù chính tôi không ở dưới luật pháp — tôi trở nên như một người ở dưới luật pháp để có thể chinh phục những người ở dưới luật pháp. 21Với những người không có luật pháp — dù đối với Đức Chúa Trời, tôi không phải không có luật pháp, vì tôi ở dưới luật pháp của Đấng Christ — tôi trở nên như một người không luật pháp để có thể chinh phục những người không có luật pháp. 22Với những người yếu đuối, tôi trở nên như một người yếu đuối để có thể chinh phục những người yếu đuối. Tôi đã trở nên mọi cách cho mọi người để có thể cứu được vài người, không cứ cách nào. 23Tôi làm mọi sự vì Tin Lành để có thể cùng chia sẻ phước hạnh của Tin Lành.
24Anh em không biết rằng trong cuộc chạy đua ở thao trường, tất cả đều chạy nhưng chỉ có một người đoạt giải sao? Vậy, hãy chạy thế nào để anh em có thể đoạt giải. 25Tất cả các vận động viên phải tự kỷ luật trong mọi sự. Họ chịu vậy để được mão miện hay hư nát. Nhưng chúng ta chịu vậy để được mão miện không hay hư nát. 26Cũng vậy, tôi chạy, chẳng phải là chạy không mục đích; tôi đánh, chẳng phải là đánh vào không khí. 27Nhưng tôi đãi thân thể tôi cách nghiêm khắc, bắt nó phải phục, e rằng sau khi tôi giảng dạy cho người khác, mà chính mình lại bị loại bỏ chăng.
Bài học lịch sử từ dân Y-sơ-ra-ên
10 Thưa anh em, tôi chẳng muốn anh em không biết rằng tất cả tổ phụ chúng ta đều đã được ở dưới đám mây; tất cả đều vượt qua biển; 2tất cả đều được báp-têm trong đám mây và trong biển để theo Môi-se; 3tất cả cùng ăn một thức ăn thiêng liêng; 4tất cả cùng uống một thức uống thiêng liêng; vì họ uống nơi một tảng đá thiêng liêng đi với họ; tảng đá ấy chính là Đấng Christ. 5Dù vậy, phần nhiều trong số họ không đẹp lòng Đức Chúa Trời nên đã ngã chết trong hoang mạc. 6Tất cả những điều nầy đã xảy ra như một lời cảnh cáo cho chúng ta, để chúng ta không chiều theo những ham muốn xấu xa như các tổ phụ. 7Cũng đừng thờ thần tượng như một số người trong họ, như lời đã chép:
“Dân chúng ngồi lại ăn uống,
Rồi đứng dậy nhảy múa.”
8Chúng ta chớ gian dâm như một số người trong họ, để chỉ trong một ngày có hai mươi ba nghìn người gục ngã. 9Cũng chớ thách thức Chúa như một số người trong họ, để rồi bị rắn hủy diệt. 10Và cũng đừng cằn nhằn như một số người trong họ, để phải chết bởi thiên sứ hủy diệt.
11Tất cả những điều nầy xảy ra cho họ như một bài học, và được ghi chép lại để cảnh cáo chúng ta là những người đang sống ở cuối các thời đại. 12Vậy nên, ai tưởng mình đứng, hãy giữ kẻo ngã. 13Những thử thách đến với anh em, chẳng có điều nào quá sức loài người. Đức Chúa Trời là Đấng thành tín, Ngài không để anh em bị thử thách quá sức mình đâu! Nhưng trong thử thách, Ngài sẽ mở đường cho ra khỏi, để anh em có thể chịu được.
Bình luận
Bạn tôn thờ và phục vụ ai?
Cho đến khi tình yêu của Chúa thay đổi quan điểm của chúng ta, hầu hết chúng ta đều là nô lệ cho chính mình (và cho những ham muốn thể xác của chính mình). Phao-lô thì ngược lại. Vì Chúa Giê-su Christ, Phao-lô đã biến chính thân thể mình thành nô lệ và trở thành ‘nô lệ cho mọi người’ (9:19a).
Phao-lô nói: ‘Tôi đã trở nên mọi cách cho mọi người để có thể cứu được vài người, không cứ cách nào’ (c.22b). Điều này không có nghĩa là ông đạo đức giả hoặc không thoải mái với chính mình hoặc không có khả năng là chính mình. Điều đó cũng không có nghĩa là ông thay đổi sứ điệp phúc âm cho phù hợp với khán giả. Ông rất say mê rao giảng phúc âm và mục đích của ông là 'chinh phục thêm nhiều người' (c.19b).
Như Giáo sư Gordon Fee viết, 'Trong khi Paul (Phao-lô) không khoan nhượng trong những vấn đề ảnh hưởng đến phúc âm, dù là thần học hay hành vi, thì mối quan tâm tương tự đối với quyền năng cứu rỗi của phúc âm là nguyên nhân khiến ông trở thành mọi sự cho mọi người đối với những vấn đề khác không quan trọng.'
Phao-lô viết: ‘Tôi đã trở nên mọi cách cho mọi người để có thể cứu được vài người, không cứ cách nào’ (c.22). Điều này có ứng dụng rộng rãi, thậm chí có thể vượt ra ngoài những lĩnh vực mà Phao-lô đã nghĩ đến. Lấy một ví dụ gần gũi, nó thậm chí có thể ảnh hưởng đến trang phục bạn mặc, để những người bạn đang nói chuyện không bị khó chịu và có thể nhận biết được bạn.
Trong khi Phao-lô sẵn lòng làm nô lệ cho mọi người, ông không sẵn lòng làm nô lệ cho những ham muốn thể xác của mình. Ông coi cuộc đời như một cuộc đua (c.24), coi mình là một vận động viên chạy bộ cần phải trải qua quá trình 'tự kỷ luật trong mọi sự' (c.25). Giống như một vận động viên, ông phải tàn nhẫn với chính cơ thể mình. Để biến nó thành nô lệ của mình, để sau khi rao giảng cho người khác, bản thân ông không bị ‘loại bỏ’ (c.27). Kỷ luật tự giác là điều cần thiết. Hãy kiểm soát cơ thể, tâm trí, môi miệng và cảm xúc của bạn.
Phao-lô biết xung quanh có rất nhiều cám dỗ. Ông có thể thấy điều này từ lịch sử của dân tộc mình – ‘phần nhiều trong số họ không đẹp lòng Đức Chúa Trời nên đã ngã chết trong hoang mạc’ (10:5).
Họ chuyên lòng 'chiều theo những ham muốn xấu xa' (c.6). Họ 'gian dâm' (c.8). Họ thách thức Đức Chúa Trời (c.9). Họ cằn nhằn (c.10). ‘Và cũng đừng cằn nhằn như một số người trong họ, để phải chết bởi thiên sứ hủy diệt’ (c.10).
Tất cả những điều nầy xảy ra cho họ như một bài học, và được ghi chép lại để cảnh cáo chúng ta là những người đang sống ở cuối các thời đại. Vậy nên, ai tưởng mình đứng, hãy giữ kẻo ngã’ (c.11–12).
Bạn sẽ bị cám dỗ giống như họ. Tuy nhiên, ông nói: ‘Những thử thách đến với anh em, chẳng có điều nào quá sức loài người. Đức Chúa Trời là Đấng thành tín, Ngài không để anh em bị thử thách quá sức mình đâu! Nhưng trong thử thách, Ngài sẽ mở đường cho ra khỏi, để anh em có thể chịu được' (c.13).
Hãy tự hỏi mình hai câu hỏi sau:
- Làm thế nào tôi có thể đảm bảo rằng tôi không bị nô lệ bởi những ham muốn của chính mình?
- Làm thế nào tôi có thể phục vụ mọi người mà tôi tiếp xúc hôm nay?
Cầu nguyện
Lạy Chúa, xin giúp con rèn luyện nghiêm ngặt để giành được ‘mão miện không hay hư nát’. Xin giúp con tránh rơi vào cám dỗ. Xin giúp con tôn thờ và phục vụ Ngài, và chỉ một mình Ngài mà thôi.
II Sử ký 2:1-5:1
Chuẩn bị xây cất đền thờ
(I Vua 5:1-18)
2 Sa-lô-môn truyền lệnh xây cất đền thờ cho danh Đức Giê-hô-va và xây hoàng cung cho mình. 2Sa-lô-môn huy động bảy mươi nghìn người khuân vác, tám mươi nghìn thợ đá miền núi, và ba nghìn sáu trăm đốc công.
Liên kết với Hi-ram, vua Ty-rơ
3Sa-lô-môn sai sứ đến nói với Hi-ram, vua Ty-rơ: “Vua đã cung cấp gỗ bá hương cho Đa-vít, thân phụ tôi, để xây cung điện, vậy xin cũng giúp tôi như thế. 4Nay, tôi sắp xây cất đền thờ cho danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi, biệt riêng đền thờ ấy ra thánh cho Ngài để xông hương trước mặt Ngài, thường xuyên bày bánh cung hiến, dâng tế lễ thiêu mỗi buổi sáng và buổi chiều, vào các ngày sa-bát, ngày lễ trăng mới, hay những ngày lễ đã được chỉ định của Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi. Đó là những nghi lễ đời đời cho Y-sơ-ra-ên. 5Đền thờ mà tôi sắp xây cất phải thật nguy nga, vì Đức Chúa Trời chúng tôi vĩ đại hơn tất cả các thần. 6Thế nhưng, ai có thể xây cất một đền thờ cho Chúa? Vì các tầng trời, cả đến các tầng trời thăm thẳm cũng không thể chứa được Ngài! Vậy, tôi là ai mà xây cất được một đền thờ cho Chúa? Chỉ mong xây cất một đền thờ để xông hương trước mặt Ngài mà thôi. 7Vậy bây giờ, xin vua gửi cho tôi một người thợ vừa giỏi về nghề vàng, bạc, đồng, sắt, vừa thạo về nghề dệt chỉ tím, đỏ và xanh, vừa biết chạm trổ để làm việc với những người thợ lành nghề tại Giu-đa và Giê-ru-sa-lem mà Đa-vít, thân phụ tôi, đã chuẩn bị. 8Xin cũng gửi cho tôi gỗ bá hương, gỗ tùng và gỗ bạch đàn hương đốn ở Li-ban. Vì tôi biết rằng các đầy tớ của vua đều thạo việc đốn gỗ trên Li-ban. Các đầy tớ tôi sẽ cộng tác với các đầy tớ vua 9để đốn cho tôi thật nhiều gỗ, vì đền thờ mà tôi định xây cất sẽ vô cùng nguy nga tráng lệ. 10Tôi sẽ cấp cho các đầy tớ vua, là những thợ đốn gỗ, bốn triệu bốn trăm nghìn lít lúa mì đã giã, bốn triệu bốn trăm nghìn lít lúa mạch, bốn trăm bốn mươi nghìn lít rượu, và bốn trăm bốn mươi nghìn lít dầu ô-liu.”
11Hi-ram, vua Ty-rơ, viết thư gửi cho Sa-lô-môn phúc đáp như sau: “Vì yêu thương dân Ngài nên Đức Giê-hô-va đã lập vua cai trị họ.” 12Hi-ram viết tiếp: “Ca ngợi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên là Đấng dựng nên trời và đất, vì Ngài đã ban cho vua Đa-vít một người con khôn ngoan, thận trọng, và thông minh để xây cất đền thờ cho Ngài, và xây một hoàng cung cho mình. 13Bây giờ, tôi gửi đến vua một người thợ khéo léo và thông sáng tên là Hu-ram A-bi, 14con trai của một phụ nữ thuộc bộ tộc Đan, cha là người Ty-rơ. Người nầy vừa giỏi về nghề vàng, bạc, đồng, sắt, đá và gỗ, vừa thạo về nghề dệt chỉ tím, xanh và đỏ sậm cùng chỉ gai trắng mịn. Anh ta cũng thông thạo đủ các thứ chạm trổ, và có thể làm bất cứ đồ vật tinh xảo nào mà người ta đặt làm. Anh ta sẽ làm việc với các thợ lành nghề của vua và của thân phụ vua là Đa-vít, chúa tôi. 15Vậy bây giờ, xin cấp lúa mì, lúa mạch, dầu và rượu cho các đầy tớ vua như vua đã nói. 16Còn chúng tôi sẽ đốn gỗ trên núi Li-ban theo số lượng vua cần, kết thành bè đưa đến Gia-phô theo đường biển; rồi vua sẽ chở lên Giê-ru-sa-lem.”
17Sa-lô-môn kiểm tra số người ngoại quốc trong nước Y-sơ-ra-ên theo thống kê của Đa-vít, thân phụ vua, tất cả được một trăm năm mươi ba nghìn sáu trăm người. 18Trong số nầy, vua đặt bảy mươi nghìn người làm phu khuân vác, tám mươi nghìn người làm thợ đá miền núi, và ba nghìn sáu trăm đốc công để điều động dân chúng làm việc.
Sa-lô-môn xây cất đền thờ
3 Sa-lô-môn khởi công xây cất đền thờ Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem trên núi Mô-ri-a, là nơi Đức Giê-hô-va đã hiện ra với Đa-vít, thân phụ vua. Đó là nơi Đa-vít đã chỉ định để xây cất trong sân đập lúa của Ọt-nan, người Giê-bu-sít. 2Vua khởi công xây cất vào ngày mồng hai tháng hai năm thứ tư đời trị vì của mình.
3Đây là kích thước mà Sa-lô-môn đã quy định để xây cất đền thờ Đức Chúa Trời: chiều dài ba mươi mét, chiều rộng mười mét. 4Chiều dài của hành lang phía trước là mười mét, bằng chiều rộng của đền thờ; chiều cao là sáu mươi mét. Vua cho bọc vàng ròng bên trong. 5Phòng lớn của đền thờ được làm bằng gỗ bá hương và bọc vàng ròng, có trang trí hình cây chà là và dây xích phía trên. 6Vua trang hoàng đền thờ bằng đá quý, còn vàng thì dùng vàng Phạt-va-im. 7Vua cho bọc vàng khắp đền thờ: xà nhà, ngưỡng cửa, tường và cửa; còn trên tường thì chạm hình chê-ru-bim.
8Vua làm Nơi Chí Thánh có chiều dài mười mét, bằng chiều ngang của đền thờ; và chiều rộng Nơi Chí Thánh cũng mười mét. Vua cho bọc nơi ấy bằng hai mươi tấn vàng ròng. 9Số vàng để mạ đinh nặng khoảng hơn nửa ký. Vua cũng bọc vàng các phòng cao.
10Trong Nơi Chí Thánh, vua cho làm hai chê-ru-bim bằng kim khí, rồi bọc vàng. 11Các cánh của hai chê-ru-bim dài tổng cộng mười mét; một cánh của chê-rúp nầy dài hai mét rưỡi chạm vào tường đền thờ, cánh còn lại cũng dài hai mét rưỡi và chạm một cánh của chê-rúp kia. 12Một cánh của chê-rúp kia dài hai mét rưỡi và chạm vào tường đền thờ, cánh còn lại cũng dài hai mét rưỡi tiếp giáp với cánh của chê-rúp trước. 13Các cánh của hai chê-ru-bim đều xòe ra, dài tổng cộng mười mét. Hai chê-ru-bim đứng thẳng trên chân, mặt hướng về nơi thánh.
14Vua làm một bức màn bằng vải màu xanh, màu tím, màu đỏ sậm cùng với vải gai mịn, có thêu hình chê-ru-bim ở trên.
15Phía trước đền thờ, vua dựng hai cây trụ cao mười bảy mét rưỡi, trên đỉnh hai trụ có đầu trụ cao hai mét rưỡi. 16Vua cũng làm dây xích giống như dây xích trong Nơi Chí Thánh để trên đỉnh trụ, rồi làm một trăm trái lựu gắn trên dây xích ấy. 17Vua dựng hai trụ đó phía trước đền thờ, một trụ bên phải, một trụ bên trái; vua đặt tên trụ bên phải là Gia-kin và trụ bên trái là Bô-ách.
Các vật dụng trong đền thờ
4 Vua làm một bàn thờ bằng đồng dài mười mét, rộng mười mét và cao năm mét. 2Vua đúc một cái bể hình tròn, đường kính năm mét, cao hai mét rưỡi, và chu vi mười lăm mét. 3Phía dưới viền quanh miệng bể có hình những con bò, cứ nửa mét có mười con được đúc chung với bể, xếp thành hai hàng chung quanh bể. 4Bể được đặt trên mười hai tượng bò: ba con quay về hướng bắc, ba con quay về hướng tây, ba con quay về hướng nam và ba con quay về hướng đông. Bể ở trên các con bò ấy, còn thân sau của chúng đều quay vào trong. 5Bể dày bằng chiều rộng của bàn tay, mép bể giống như mép chén hình hoa huệ nở; bể chứa được sáu mươi sáu nghìn lít. 6Vua cũng làm mười cái thùng, đặt năm cái bên phải và năm cái bên trái để tẩy rửa các vật dùng cho tế lễ thiêu. Còn bể đúc thì để cho các thầy tế lễ thanh tẩy.
7Vua làm mười chân đèn bằng vàng theo kiểu đã ấn định, rồi đặt trong đền thờ: năm cái bên phải, năm cái bên trái. 8Vua làm mười cái bàn đặt trong đền thờ: năm cái bên phải và năm cái bên trái. Vua cũng làm một trăm cái chậu bằng vàng.
9Vua làm một cái sân trong cho các thầy tế lễ và một sân lớn, các cửa giữa hai sân được bọc bằng đồng. 10Vua đặt cái bể ở bên phải đền thờ, về hướng đông nam.
11Hu-ram còn làm những bình đựng tro, vá và chậu.
Như vậy, Hu-ram làm xong tất cả công việc mà ông đã nhận làm cho Sa-lô-môn trong đền thờ của Đức Chúa Trời gồm: 12Hai cây trụ, hai đầu trụ hình bầu ở trên đỉnh trụ, hai tấm lưới bao hai cái bầu của đầu trụ, 13bốn trăm trái lựu gắn vào hai tấm lưới, mỗi tấm có hai hàng trái lựu để bao hai cái bầu của đầu trụ; 14những cái bệ và thùng ở trên bệ; 15một cái bể đúc có mười hai con bò đỡ phía dưới; 16những bình đựng tro, vá, nĩa và các đồ phụ tùng. Hu-ram A-bi làm cho vua Sa-lô-môn tất cả các vật dụng đó bằng đồng đánh bóng để dùng trong đền thờ Đức Giê-hô-va. 17Vua truyền đúc các vật dụng ấy trong những khuôn đất sét tại đồng bằng Giô-đanh, giữa Su-cốt và Xê-rê-đa. 18Vua Sa-lô-môn cho làm tất cả các vật dụng ấy, nhiều đến nỗi không thể tính được số lượng đồng đã dùng.
19Sa-lô-môn làm tất cả các vật dụng trong đền thờ Đức Chúa Trời gồm: bàn thờ bằng vàng, những cái bàn dùng để bày bánh cung hiến; 20các chân đèn và đèn bằng vàng ròng để thắp trước nội điện theo luật định, 21các hoa, đèn và nĩa bằng vàng ròng; 22kéo cắt tim đèn, bát, đĩa đựng hương liệu và lư hương cũng bằng vàng ròng; cả đến lối vào đền thờ, các cánh cửa đền thờ bên trong Nơi Chí Thánh, cùng các cánh cửa của đền thờ cũng đều bằng vàng.
5 Như thế, tất cả các công trình mà Sa-lô-môn thực hiện cho đền thờ Đức Giê-hô-va đều hoàn thành. Sa-lô-môn đem những vật mà vua cha là Đa-vít đã biệt riêng ra thánh, tức là bạc vàng và các vật dụng, đặt vào kho tàng của đền thờ Đức Chúa Trời.
Bình luận
Bạn thờ phượng và phục vụ như thế nào?
Một trong những điều tôi yêu thích và ngưỡng mộ ở nhiều Hội thánh mà chúng tôi có vinh dự được đến thăm, đó là mô hình mà họ đặt ra về sự xuất sắc trong sự thờ phượng. Chúng tôi cố gắng bắt chước việc chú ý đặc biệt đến từng chi tiết trong: âm nhạc, chào đón, tuyển dụng và đào tạo các tình nguyện viên để đảm bảo sự thờ phượng của chúng tôi tốt nhất có thể.
Tôi yêu thích tính đa dạng của sự thờ phượng được thấy ở các khu vực khác nhau của Hội thánh. Về căn bản, phong cách không quan trọng. Sự thờ phượng của chúng ta phải tuyệt vời. Nó phải là ưu tiên hàng đầu trong việc sử dụng các nguồn lực của chúng ta bởi vì chúng ta làm điều đó để tôn vinh Chúa.
Khi Sa-lô-môn bắt đầu xây 'đền thờ cho danh Đức Giê-hô-va' (2:1), ông nói: “Đền thờ mà tôi sắp xây cất phải thật nguy nga, vì Đức Chúa Trời chúng tôi vĩ đại hơn tất cả các thần… đền thờ mà tôi định xây cất sẽ vô cùng nguy nga tráng lệ' (c.5,9).
Để đạt được sự xuất sắc cần rất nhiều vật chất, thời gian và công sức. Nó đòi hỏi sự chú ý đặc biệt đến từng chi tiết (chương 2–4). Những chi tiết nhỏ nhất phải có chất lượng cao nhất trong việc phụng sự Chúa.
Đây là lý do tại sao họ sử dụng nhiều vàng như vậy (4:21-22). Người chiến thắng trong các cuộc thi thể thao nhận được huy chương vàng vì vàng tượng trưng cho điều tốt đẹp nhất. Vì vậy, khi bạn thờ phượng và phục vụ Chúa, hãy cống hiến hết khả năng của mình.
Như Phao-lô viết cho người Cô-lô-se, 'Khi làm bất cứ việc gì, hãy hết lòng mà làm, như làm cho Chúa chứ không phải làm cho người ta... Anh em đang phục vụ Đấng Christ là Chúa' (Cô-lô-se 3:23–24) .
Có lần mục sư Charles Spurgeon đang nói chuyện với một người quét dọn mới trở thành Cơ-đốc nhân. Spurgeon hỏi cô Chúa Giê-su đã tạo ra sự khác biệt gì. Cô ấy rụt rè trả lời: 'Thưa ngài, bây giờ tôi đang quét dưới tấm thảm chùi chân'. Cô ấy biết rằng trong công việc của mình, cốt lõi cô ấy đang phục vụ và thờ phượng Chúa Giê-su. Không sống buông thả.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, xin giúp con trong việc thờ phượng và phục vụ Ngài để chú ý đến từng chi tiết và đảm bảo rằng mọi việc con làm đều có chất lượng cao nhất.
Pippa chia sẻ
I Cô-rinh-tô 10:12
‘Vậy nên, ai tưởng mình đứng, hãy giữ kẻo ngã.'
Thông thường chỉ khi mọi thứ đang diễn ra tốt đẹp thì lại có sự cố xảy ra hoặc tôi nhận thấy có sự thất bại nào đó. Chúng ta phải sống một cuộc sống 'thận trọng' không phải theo cách hạn chế đáng sợ, mà bằng cách tận dụng tối đa mọi cơ hội, bắt nguồn từ đức tin, tràn đầy hy vọng và lòng can đảm.
App
Tải xuống ứng dụng Kinh Thánh Trong Một Năm dành cho thiết bị iOS hoặc Android và đọc theo mỗi ngày.
Đăng ký ngay bây giờ để nhận Kinh thánh trong một năm trong hộp thư đến của bạn mỗi sáng. Bạn sẽ nhận được một email mỗi ngày.
Book
Kinh thánh trong một năm bình luận có sẵn như là một cuốn sách.
- Mua từ Cửa hàng Alpha
- [Mua từ Nhà sách CLC](https://clcbookshops.com/product/bible-in-one-year-the-a-commentary-by-nicky-gumbel-hard-cover-gumbel-nicky-hodder-stoughton- 9781473677067)
Tham khảo
Gordon D. Fee, Thư đầu tiên gửi tín hữu Cô-rinh-tô (Nhà xuất bản William B Eerdmans, 1987) trang 431
Trừ khi có quy định khác, các trích dẫn Kinh thánh lấy từ Kinh thánh, Phiên bản quốc tế mới được Anh hóa, Bản quyền © 1979, 1984, 2011 Biblica, trước đây là Hiệp hội Kinh thánh Quốc tế. Được sử dụng với sự cho phép của Nhà xuất bản Hodder & Stoughton, một công ty của Hachette Vương quốc Anh. Đã đăng ký Bản quyền. ‘NIV’ là nhãn hiệu đã đăng ký của Biblica. Số nhãn hiệu Vương quốc Anh 1448790.
Các trích dẫn Kinh thánh được đánh dấu (AMP) lấy từ Amplified® Bible, Bản quyền © 1954, 1958, 1962, 1964, 1965, 1987 bởi The Lockman Foundation. Được sử dụng bởi sự cho phép. (www.Lockman.org)
Kinh thánh được đánh dấu (MSG) được lấy từ Thông điệp. Bản quyền © 1993, 1994, 1995, 1996, 2000, 2001, 2002. Được sử dụng dưới sự cho phép của NavPress Publishing Group.