Làm sao để vui hưởng Chúa
Giới thiệu
Bạn và tôi được tạo dựng để thờ phượng Chúa. Nhưng tại sao Chúa lại tạo ra con người để nhận được sự thờ phượng? Một số người cho rằng, đây không phải thuần túy phù phiếm sao?
Cách đây nhiều năm, tôi đã được giúp đỡ trong việc hiểu biết về sự thờ phượng qua lời giải thích của C.S. Lewis trong Suy ngẫm về các Thi thiên.
Ông viết: 'Sự thật rõ ràng nhất về lời khen ngợi... tôi không hiểu được một cách kỳ lạ... Tôi chưa bao giờ nhận thấy rằng mọi niềm vui đều tuôn tràn một cách tự nhiên thành lời khen ngợi... thế giới vang lên những lời khen ngợi... những người đi bộ ca ngợi vùng nông thôn, những người chơi ca ngợi trò chơi yêu thích của họ - ca ngợi thời tiết, rượu vang, món ăn, diễn viên, ngựa, trường đại học, quốc gia, nhân vật lịch sử, trẻ em, hoa, núi, tem quý, sách quý, thậm chí đôi khi là các chính trị gia và học giả…
‘Tôi nghĩ chúng ta vui vẻ khen ngợi những gì chúng ta thích thú bởi vì lời khen ngợi không chỉ thể hiện mà còn làm trọn vẹn sự thích thú; ý chỉ sự hoàn thiện. Không phải vì lời khen mà những người yêu nhau cứ nói với nhau người kia đẹp như thế nào; niềm vui sẽ không trọn vẹn cho đến khi nó được thể hiện.'
Nói cách khác, thờ phượng là sự hoàn thiện của niềm vui. Niềm vui của chúng ta không trọn vẹn cho đến khi nó được thể hiện qua sự thờ phượng. Chính vì tình yêu của Ngài dành cho bạn mà Chúa đã tạo ra bạn để tôn thờ. Theo Giáo lý vắn tắt Westminster của Westminster, “mục đích chính của loài người là tôn vinh Đức Chúa Trời và vui hưởng Ngài mãi mãi”.
Thi Thiên 98:1-9
Ca ngợi quyền năng và sự công chính của Đức Giê-hô-va
1Hãy hát cho Đức Giê-hô-va một bài ca mới,
Vì Ngài đã làm các phép mầu.
Tay phải và cánh tay thánh của Ngài
Đã đem chiến thắng về cho Ngài.
2Đức Giê-hô-va đã công bố sự cứu rỗi của Ngài
Và bày tỏ đức công chính Ngài trước mặt các nước.
3Ngài nhớ lại lòng nhân từ và sự thành tín của Ngài
Đối với nhà Y-sơ-ra-ên;
Các đầu cùng đất đã thấy
Ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời chúng ta.
4Hỡi cả trái đất, hãy cất tiếng reo mừng cho Đức Giê-hô-va,
Và bật lên khúc ca chúc tụng Ngài.
5Hãy dùng đàn hạc và giọng ca
Mà tôn ngợi Đức Giê-hô-va!
6Hãy dùng tiếng kèn và tiếng tù và mà reo mừng
Trước mặt Vua tức là Đức Giê-hô-va!
7Nguyện biển và mọi sinh vật trong biển,
Thế giới cùng những người sống trong đó đều cất tiếng ca vang!
8Nguyện các sông vỗ tay,
Núi đồi cùng nhau hát mừng trước mặt Đức Giê-hô-va!
\t 9Vì Ngài đến để phán xét thế gian;
Ngài sẽ phán xét thế giới theo sự công chính,
Và xét xử các dân tộc theo lẽ công bằng.
Bình luận
Ca hát và âm nhạc
Tác giả Thi Thiên kêu gọi mọi người thờ phượng Chúa bằng bài hát và âm nhạc: ‘Hãy hát cho Đức Giê-hô-va một bài ca mới…Hỡi cả trái đất, hãy cất tiếng reo mừng cho Đức Giê-hô-va, và bật lên khúc ca chúc tụng Ngài. Hãy dùng đàn hạc và giọng ca mà tôn ngợi Đức Giê-hô-va!’ (c.1,4–5).
Thi Thiên này đầy âm thanh, khi mọi người được yêu cầu tôn vinh sự tốt lành của Chúa bằng nhiều cách khác nhau. Có một lời kêu gọi ca hát, reo hò, chơi nhạc cụ và thậm chí vỗ tay trong lễ tôn vinh Đức Chúa Trời của chúng ta:
‘Hỡi cả trái đất, hãy cất tiếng reo mừng cho Đức Giê-hô-va,
Và bật lên khúc ca chúc tụng Ngài.
Hãy dùng đàn hạc và giọng ca
Mà tôn ngợi Đức Giê-hô-va!
Hãy dùng tiếng kèn và tiếng tù và mà reo mừng
Trước mặt Vua tức là Đức Giê-hô-va!
Nguyện biển và mọi sinh vật trong biển,
Thế giới cùng những người sống trong đó đều cất tiếng ca vang!’ (c.4–7).
Tất cả điều này là sự đáp lại những gì Chúa đã làm cho chúng ta. Bạn được kêu gọi thờ phượng Chúa là Đấng Cứu Rỗi (c.1–3), Vua (c.4–6) và Đấng Phán Xét (c.7–9).
Khi đọc điều này qua lăng kính của Chúa Giê-su, chúng ta có thể thấy đây là một thi thiên mang tính tiên tri. Chúa Giê-su là Đấng ở ‘tay phải’ của Đức Chúa Trời, Đấng đã ‘công bố sự cứu rỗi’ (c.1). Ngài đã bày tỏ sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời và ‘bày tỏ đức công chính Ngài trước mặt các nước’ (c.2). (Xem thêm Rô-ma 3:21.)
Có niềm vui chờ đợi sự phục hồi chung của vạn vật khi Đấng Cứu Rỗi đến phán xét trái đất (Thi Thiên 98:9). Sau đó mọi tạo vật sẽ được phục hồi (c.7–8). Như sứ đồ Phao-lô đã nói: ‘Vì muôn vật nhiệt thành, thiết tha trông mong sự hiện ra của con cái Đức Chúa Trời… chính muôn vật rồi đây cũng sẽ được giải phóng khỏi thân phận nô lệ cho sự hư nát, để chung hưởng sự tự do trong vinh quang của con cái Đức Chúa Trời’ (Rô-ma 8:19 –21).
Thi Thiên này là một bài ngợi ca dâng trào – từ cộng đồng những người thờ phượng Chúa (Thi Thiên 98:1–3), cho đến mọi người (c.4–6) và cuối cùng đến toàn thể tạo vật (c.7–9). .
Cầu nguyện
Lạy Chúa, con tôn thờ Ngài. Cảm ơn vì đã cứu con. Cảm ơn tình yêu và sự thành tín của Ngài. Cảm ơn Ngài vì con có thể thờ phượng Ngài với niềm vui, những bài hát tưng bừng, âm nhạc và tiếng la vang. Cảm ơn Ngài vì con có thể tin tưởng vào sự công bình trong sự phán xét của Ngài - Chúa sẽ phán xét thế giới một cách công bình và con người một cách công bằng.
I Cô-rinh-tô 11:2-34
Vấn đề ăn mặc của phụ nữ trong buổi nhóm
2Tôi khen anh em vì đã nhớ đến tôi trong mọi sự, và trung tín duy trì các truyền thống tôi đã dạy cho anh em. 3Dù vậy, tôi muốn anh em hiểu rằng: Đấng Christ là đầu của người nam, người nam là đầu của người nữ, và Đức Chúa Trời là đầu của Đấng Christ. 4Bất cứ người nam nào cầu nguyện hoặc nói tiên tri mà trùm đầu lại thì làm nhục đầu mình. 5Nhưng, bất cứ người nữ nào cầu nguyện hoặc nói tiên tri mà không trùm đầu thì làm nhục đầu mình — giống như người ấy bị cạo đầu vậy. 6Nếu người nữ không trùm đầu thì hãy cắt tóc đi. Nhưng nếu người nữ xem việc cắt tóc hay cạo đầu là xấu hổ thì hãy trùm đầu lại!
7Người nam là hình ảnh và vinh quang của Đức Chúa Trời nên không được trùm đầu; nhưng người nữ là vinh quang của người nam. 8Vì người nam không được tạo dựng từ người nữ, nhưng người nữ từ người nam. 9Người nam cũng không được tạo dựng vì người nữ, nhưng người nữ vì người nam. 10Bởi đó, vì các thiên sứ, người nữ phải đội trên đầu dấu hiệu của thẩm quyền. 11Tuy nhiên, trong Chúa thì không phải nữ độc lập với nam, hoặc nam độc lập với nữ. 12Vì như người nữ được tạo dựng từ người nam, thì cũng vậy, người nam do người nữ sinh ra; và mọi sự đều ra từ Đức Chúa Trời.
13Anh em hãy tự suy xét xem, việc người nữ cầu nguyện với Đức Chúa Trời mà không trùm đầu thì có thích hợp không? 14Không phải chính bản tính tự nhiên dạy anh em biết rằng người nam để tóc dài thì đáng xấu hổ, 15còn người nữ để tóc dài thì lại là niềm tự hào của họ sao? Vì mái tóc dài được ban cho người như một khăn trùm. 16Nếu có ai muốn tranh luận thì đó không phải là thói quen của chúng tôi; các Hội Thánh của Đức Chúa Trời cũng không có thói quen ấy nữa.
Bữa tiệc yêu thương và Tiệc Thánh
17Còn về những lời chỉ dạy sau đây, tôi không thể khen anh em, vì sự nhóm họp của anh em không đem lại điều tốt hơn mà còn tệ hơn. 18Trước hết, tôi nghe rằng, khi nhóm lại trong Hội Thánh thì anh em có sự chia rẽ; tôi tin điều nầy có phần đúng. 19Việc bè phái trong anh em thì chắc không còn nghi ngờ gì nữa, nhưng có vậy mới nhận biết rõ ai là người chân thật. 20Khi anh em nhóm họp lại không phải là để dự Tiệc Thánh của Chúa nữa. 21Vì lúc anh em ăn, ai nấy đều vội vã ăn bữa riêng của mình, đến nỗi người nầy thì đói, còn kẻ kia thì no say. 22Anh em không có nhà riêng để ăn uống sao? Hay là anh em khinh miệt Hội Thánh của Đức Chúa Trời, và sỉ nhục những người thiếu thốn? Tôi phải nói gì với anh em đây? Có nên khen anh em trong việc nầy chăng? Không, tôi không khen đâu!
23Vì tôi có nhận nơi Chúa điều tôi đã dạy cho anh em: Ấy là trong đêm Chúa là Đức Chúa Jêsus bị phản nộp, Ngài lấy bánh, 24tạ ơn, rồi bẻ ra và phán rằng: “Nầy là thân thể Ta vì các con mà phó cho, hãy làm điều nầy để nhớ đến Ta.” 25Cùng một cách ấy, sau khi ăn bữa tối rồi, Ngài lấy chén và phán rằng: “Chén nầy là giao ước mới trong huyết Ta; hễ khi nào các con uống, hãy làm điều nầy để nhớ Ta.” 26Vậy, mỗi lần anh em ăn bánh nầy, uống chén nầy thì rao giảng sự chết của Chúa cho đến lúc Ngài đến. 27Vì thế, nếu ai ăn bánh, uống chén của Chúa một cách không xứng đáng thì sẽ mắc tội với thân và huyết của Chúa. 28Vậy, mỗi người phải tự xét chính mình rồi mới ăn bánh, uống chén ấy. 29Vì người nào không phân biệt thân Chúa mà ăn bánh, uống chén ấy tức là ăn uống sự phán xét cho chính mình. 30Vì lý do đó mà trong anh em có nhiều người đau yếu, bệnh tật và có lắm kẻ ngủ. 31Nếu chúng ta tự xét mình thì sẽ không bị phán xét. 32Nhưng khi Chúa phán xét, Ngài sửa phạt chúng ta để chúng ta không bị kết án chung với thế gian. 33Cho nên, thưa anh em của tôi, lúc anh em họp lại để ăn chung với nhau, hãy chờ đợi nhau. 34Nếu có ai đói, hãy ăn ở nhà, để việc nhóm họp của anh em không chuốc lấy sự kết án.
Còn các việc khác, khi tôi đến sẽ định đoạt.
Bình luận
Kính sợ và cảm tạ
Phao-lô đề cập đến vấn đề danh dự và phép tắc trong việc thờ phượng, và đặc biệt ông xem xét vai trò và vị trí của phụ nữ trong việc thờ phượng. Ý nghĩa của đoạn này đã được tốn rất nhiều mực để thảo luận.
Mối quan tâm của Phao-lô là không có điều gì có thể xúc phạm đến Phúc âm. Có sự đồng tình rằng phần lớn do văn hóa - chẳng hạn, rất ít Hội thánh ngày nay yêu cầu phụ nữ che tóc.
Rõ ràng là cả người nam và nữ đều hi vọng được cầu nguyện và nói tiên tri trong các buổi lễ (c.4–5). Cũng rõ ràng rằng có sự bình đẳng giữa hai giới và sự phụ thuộc lẫn nhau (c.11–12): 'Tuy nhiên, trong Chúa thì không phải nữ độc lập với nam, hoặc nam độc lập với nữ. Vì như người nữ được tạo dựng từ người nam, thì cũng vậy, người nam do người nữ sinh ra; và mọi sự đều ra từ Đức Chúa Trời' ( c.11–12).
Tiếp theo, Phao-lô tiếp tục thảo luận về 'Bữa tiệc ly' (c.20), hay 'Bí tích Thánh Thể' như ông gọi ở nơi khác (Eucharistéin là một động từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là 'tạ ơn').
Đây có lẽ là tài liệu sớm nhất về thành tố này trong các buổi thờ phượng của chúng ta. Việc này đã là một phần quan trọng trong sự thờ phượng của Cơ đốc giáo trong 2.000 năm qua, được tôn vinh bởi hầu hết các Hội thánh trên toàn thế giới. Một lần nữa, đã có rất nhiều cuộc thảo luận về ý nghĩa chính xác điều Phao-lô đã đề cập. Tuy nhiên, đối với tôi, đoạn văn này có một số điều khá rõ ràng:
Điều thường xuyên
Người ta mong đợi rằng khi họ 'nhóm họp' (c.17,20), 'Bữa Tiệc Ly' sẽ diễn ra.Điều quan trọng
Chúa Giê-su bảo chúng ta ‘làm điều nầy’ (c.24). Hậu quả của việc không làm đúng là rất nghiêm trọng (c.27 trở đi). ‘Vậy, mỗi người phải tự xét chính mình rồi mới ăn bánh, uống chén ấy’ (c.28).Đó là lời tuyên bố
Đây là một trong những cách bạn rao giảng Tin Lành. Vậy, mỗi lần anh em ăn bánh nầy, uống chén nầy thì rao giảng sự chết của Chúa cho đến lúc Ngài đến’ (c.26).Điều này liên quan đến cả việc ghi nhớ
Chúa Giê-su (c.24–25) và ‘phân biệt thân Chúa’ (c.29). Hãy mong đợi gặp Chúa Giê-su khi bạn nhận bánh và rượu.Đó là việc tham dự vào thân và huyết Chúa Giê-su (10:14 trở đi). Từ Hy Lạp được sử dụng ở đây là koinonia, cũng có thể có nghĩa là 'chia sẻ' hoặc 'thông công'. Đó là cách để chúng ta đón nhận và chia sẻ những ơn lành từ cái chết của Chúa Giêsu.
Đó là một hình thức tạ ơn. Chúng ta uống ‘chén phước hạnh’ (10:16).
Đó là biểu hiện của sự đoàn kết. ‘Vì chỉ có một ổ bánh, nên chúng ta tuy nhiều nhưng chỉ là một thân, vì tất cả chúng ta đều ăn chung một ổ bánh (c.17). Một trong những bi kịch lớn nhất của lịch sử Hội thánh là cách thức thể hiện sự hiệp nhất lớn lao này lại trở thành nguyên nhân gây chia rẽ.
Nó báo trước sự trở lại của Chúa. Bạn đang rao truyền ‘sự chết của Chúa cho đến khi Ngài đến’ (11:26).
Bánh và rượu là thịt và huyết Chúa Giê-su (c.24–25). Đây là một trong những cách chúng ta kinh nghiệm sự hiện diện của Ngài ngày nay. Ý nghĩa chính xác của điều này là gì, tất nhiên, đã là chủ đề cho nhiều những suy đoán, tranh luận và tranh cãi lớn. Có lẽ một cách tiếp cận đơn giản là chấp nhận nó như một điều bí ẩn và không đi sau Kinh thánh và suy đoán quá nhiều về cách thức hoạt động chính xác.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, xin giúp con thờ phượng Ngài theo cách đúng đắn, phù hợp và làm hài lòng Ngài. Xin giúp con tập trung vào Chúa Giê-su. Hãy giúp con tìm ra mục đích thực sự của mình là tôn thờ Ngài và vui hưởng Ngài mãi mãi.
II Sử ký 7:11-9:31
11Như vậy, Sa-lô-môn đã hoàn tất việc xây cất đền thờ Đức Giê-hô-va và cung vua. Tất cả công trình Sa-lô-môn định làm trong đền thờ Đức Giê-hô-va và trong cung vua đều hoàn thành mỹ mãn.
Đức Chúa Trời hiện ra lần thứ hai cho Sa-lô-môn
12Ban đêm, Đức Giê-hô-va hiện đến cùng Sa-lô-môn và phán rằng: “Ta đã nghe lời cầu nguyện của con và đã chọn nơi nầy làm nhà dâng sinh tế. 13Khi Ta đóng các tầng trời lại, không cho mưa sa xuống; khi Ta truyền cho cào cào phá hại đất đai; và khi Ta giáng bệnh dịch giữa dân Ta; 14nếu dân Ta, là dân được gọi bằng danh Ta, hạ mình xuống, cầu nguyện, tìm kiếm mặt Ta và từ bỏ con đường gian ác, thì từ trên trời Ta sẽ lắng nghe, tha thứ tội lỗi họ và chữa lành đất nước họ. 15Từ nay, mắt Ta sẽ đoái xem, tai Ta sẽ lắng nghe lời cầu nguyện tại nơi nầy, 16vì bây giờ Ta đã chọn và thánh hóa đền thờ nầy để danh Ta ngự tại đó đời đời; mắt và lòng Ta sẽ ở đó mãi mãi. 17Còn con, nếu con bước đi trước mặt Ta như cha của con là Đa-vít đã bước đi, làm theo mọi điều Ta truyền bảo con, tuân giữ những luật lệ và chỉ thị của Ta, 18thì Ta sẽ làm cho ngôi nước con được bền vững đúng như giao ước Ta đã lập với Đa-vít, cha của con rằng: ‘Con sẽ không bao giờ thiếu người trị vì trên Y-sơ-ra-ên.’
19Nhưng nếu các con quay khỏi và từ bỏ các luật lệ và điều răn Ta đã đặt trước mặt các con, đi theo các thần khác và thờ lạy chúng, 20thì Ta sẽ nhổ các con khỏi đất Ta đã ban cho các con. Còn đền thờ mà Ta đã thánh hóa cho danh Ta, Ta sẽ ném bỏ nó khỏi Ta, làm cho nó trở thành đề tài cho các dân tộc đàm tiếu và chế nhạo. 21Đền thờ nầy dù có đồ sộ đến đâu, nhưng rồi mọi người đi ngang qua đều sẽ kinh ngạc hỏi rằng: ‘Tại sao Đức Giê-hô-va đã làm cho đất nước nầy và đền thờ nầy như thế?’ 22Người ta sẽ trả lời rằng: ‘Đó là vì họ đã lìa bỏ Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ họ, là Đấng đã đem họ ra khỏi Ai Cập; và vì họ đã đeo đuổi các thần khác, quỳ lạy và phục vụ các thần ấy nên Ngài giáng trên họ tất cả các tai họa nầy.’”
Sa-lô-môn tái thiết các thành phố
(I Vua 9:10-28)
8 Vào cuối năm thứ hai mươi, khi vua Sa-lô-môn đã xây cất xong đền thờ Đức Giê-hô-va và cung điện của mình, 2thì vua xây lại các thành mà Hi-ram đã tặng cho vua, và cho dân Y-sơ-ra-ên định cư tại đó.
3Sa-lô-môn tiến đánh Ha-mát Xô-ba và chiếm được thành ấy. 4Vua xây thành Tát-mốt trong hoang mạc và xây các thành dùng làm kho tàng tại xứ Ha-mát. 5Vua cũng xây Bết Hô-rôn Thượng và Bết Hô-rôn Hạ là những thành kiên cố, có tường thành và cửa đóng then cài. 6Vua xây thành Ba-lát và tất cả các thành làm kho tàng của vua, các thành để chứa chiến xa, và các thành cho ngựa chiến. Sa-lô-môn hoàn thành tất cả những dự án xây cất tại Giê-ru-sa-lem, Li-ban và toàn lãnh thổ thuộc quyền vua. 7Tất cả những người còn sót lại trong các dân Hê-tít, A-mô-rít, Phê-rê-sít, Hê-vít và Giê-bu-sít không thuộc về Y-sơ-ra-ên, 8tức là các con cháu của chúng còn lại trong xứ mà dân Y-sơ-ra-ên không diệt hết, thì Sa-lô-môn bắt chúng làm lao dịch cho đến ngày nay. 9Nhưng trong dân Y-sơ-ra-ên, Sa-lô-môn không bắt ai làm lao dịch cả. Họ là những chiến sĩ, quan tướng, những người chỉ huy chiến xa và kỵ binh của vua. 10Số viên chức mà vua Sa-lô-môn đặt lên làm quản đốc nhân công là hai trăm năm mươi người.
11Sa-lô-môn cho rước công chúa Pha-ra-ôn từ thành Đa-vít lên cung điện mà vua đã xây cất cho bà, vì vua nói rằng: “Vợ ta sẽ không ở trong cung Đa-vít, vua Y-sơ-ra-ên, vì Hòm Giao Ước của Đức Giê-hô-va đến nơi nào thì nơi đó là thánh.”
12Bấy giờ, Sa-lô-môn dâng tế lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va trên bàn thờ của Đức Giê-hô-va mà vua đã xây trước hành lang đền thờ; 13vua dâng đúng như luật của Môi-se quy định về việc dâng tế lễ trong các ngày sa-bát, ngày trăng mới, và ba ngày lễ lớn hằng năm là lễ Bánh Không Men, lễ Các Tuần và lễ Lều Tạm. 14Theo lệnh truyền của vua cha là Đa-vít, vua phân công cho các thầy tế lễ theo ban thứ; phân công người Lê-vi trong việc ca ngợi Chúa và phụ giúp các thầy tế lễ trong công việc hằng ngày. Vua cũng phân công người giữ cổng theo phiên thứ tại mỗi cổng đền thờ, vì đây là lệnh truyền của Đa-vít, người của Đức Chúa Trời. 15Bất cứ điều gì Đa-vít đã truyền dạy liên quan đến các thầy tế lễ, người Lê-vi, cũng như về kho tàng và các việc khác đều được thực hiện chính xác.
16Mọi công trình của Sa-lô-môn được hoàn tất, từ ngày đặt nền móng đền thờ Đức Giê-hô-va cho đến ngày hoàn thành. Như vậy, đền thờ Đức Giê-hô-va đã được xây cất xong.
17Lúc ấy, Sa-lô-môn đi đến Ê-xi-ôn Ghê-be và Ê-lốt trên bờ biển thuộc đất Ê-đôm. 18Vua Hi-ram sai các đầy tớ đem đến cho vua Sa-lô-môn tàu bè và các thủy thủ thông thạo nghề đi biển. Họ cùng đi với các đầy tớ của Sa-lô-môn đến Ô-phia chở về khoảng mười lăm tấn vàng cho vua Sa-lô-môn.
Nữ hoàng Sê-ba yết kiến Sa-lô-môn
(I Vua 10:1-13)
9 Khi nữ hoàng Sê-ba nghe về danh tiếng của Sa-lô-môn thì đến Giê-ru-sa-lem, đặt nhiều câu đố để thử vua Sa-lô-môn. Cùng đi với bà có đoàn tùy tùng đông đảo, có rất nhiều lạc đà chở hương liệu và một số lượng rất lớn vàng cùng đá quý. Bà đến gặp vua Sa-lô-môn và đặt với vua tất cả những nghi vấn bà có trong lòng. 2Sa-lô-môn giải đáp tất cả các vấn đề bà đưa ra, không có vấn đề nào là quá bí ẩn đến nỗi Sa-lô-môn không thể giải đáp cho bà.
3Nữ hoàng Sê-ba thấy sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn, cung điện vua đã xây cất, 4những món ăn trên bàn vua, cách phân định chỗ ngồi của triều thần, cung cách làm việc của các quan và trang phục của họ, các quan dâng rượu và trang phục của họ, cùng các tế lễ thiêu mà vua dâng trong đền thờ Đức Giê-hô-va, thì bà mất vía.
5Bà nói với vua: “Điều tôi nghe nói trong nước tôi về các lời nói và sự khôn ngoan của ngài thì quả là sự thật! 6Tôi đã không tin lời họ cho đến khi tôi đến đây và thấy tận mắt những điều nầy. Thực ra, người ta cho tôi biết chưa đến một nửa sự khôn ngoan lớn lao của ngài; ngài thật vượt xa hơn tiếng đồn mà tôi đã nghe. 7Triều thần của ngài thật có phước! Các cận thần của ngài, những người luôn đứng chầu trước mặt ngài, được nghe sự khôn ngoan của ngài thật có phước! 8Đáng ca ngợi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ngài, là Đấng đã vui lòng đặt ngài lên ngôi làm vua để cai trị cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ngài! Vì Đức Chúa Trời yêu thương dân Y-sơ-ra-ên, muốn cho dân nầy được bền vững mãi mãi, nên đã lập ngài làm vua của họ để thực thi công lý và sự chính trực.”
9Nữ hoàng tặng cho vua ba nghìn sáu trăm ký vàng, rất nhiều hương liệu và đá quý. Chưa từng có thứ hương liệu nào giống như hương liệu của nữ hoàng Sê-ba tặng cho vua Sa-lô-môn.
10(Các đầy tớ của Hi-ram và Sa-lô-môn chở vàng từ Ô-phia về; họ cũng chở về nhiều gỗ bạch đàn hương và đá quý. 11Vua dùng gỗ bạch đàn hương ấy làm bậc thang trong đền thờ Đức Giê-hô-va và trong cung điện; vua cũng dùng gỗ ấy làm đàn hạc, đàn lia cho các nhạc sĩ. Trước đây, trong đất Giu-đa, người ta chưa hề thấy như vậy.
12Vua Sa-lô-môn tặng lại nữ hoàng Sê-ba tất cả những gì bà thích và xin, nhiều hơn những tặng phẩm mà bà đem đến cho vua. Sau đó, nữ hoàng và đoàn tùy tùng trở về nước.
Sự giàu có của Sa-lô-môn
13Số vàng mà vua Sa-lô-môn thu được hằng năm cân nặng khoảng hai mươi tấn, 14chưa kể số vàng mà các nhà buôn và khách giao thương đem đến, cùng số vàng và bạc mà các vua Ả-rập và các quan tổng đốc của xứ đem đến cho Sa-lô-môn. 15Vua Sa-lô-môn làm hai trăm cái khiên lớn dát vàng, mỗi cái dùng khoảng bảy ký vàng. 16Vua cũng làm ba trăm cái khiên nhỏ dát vàng, mỗi cái dùng khoảng ba ký rưỡi vàng. Vua để các khiên ấy trong cung Rừng Li-ban. 17Vua làm một cái ngai lớn bằng ngà và bọc vàng ròng. 18Ngai có sáu bậc và một bệ chân bọc vàng gắn liền với ngai, hai bên chỗ ngồi của ngai có thanh nâng tay, cạnh các thanh nâng tay có hai tượng sư tử. 19Trên sáu bậc của ngai có mười hai tượng sư tử đứng hai bên. Không có vương quốc nào làm ngai giống như thế. 20Các vật dụng để uống của vua Sa-lô-môn đều làm bằng vàng, và tất cả những vật dụng trong cung Rừng Li-ban cũng đều làm bằng vàng ròng. Trong đời Sa-lô-môn, bạc chẳng có giá trị gì 21vì vua có đoàn tàu đi Ta-rê-si cùng với các thủy thủ của Hi-ram, cứ ba năm một lần, đoàn tàu nầy đem về vàng, bạc, ngà voi, khỉ và công.
22Vậy, vua Sa-lô-môn trổi hơn tất cả các vua trên đất về sự giàu có và khôn ngoan. 23Tất cả các vua trên đất đều mong được hội kiến Sa-lô-môn để nghe sự khôn ngoan mà Đức Chúa Trời đã đặt trong lòng vua. 24Hằng năm, họ đem đến cho vua những tặng vật như các vật dụng bằng bạc, bằng vàng, y phục, vũ khí, hương liệu, ngựa và la. 25Vua Sa-lô-môn có bốn nghìn chuồng ngựa, nhiều chiến xa, và mười hai nghìn ngựa chiến ở trong các thành chứa xe, và ở gần bên vua tại Giê-ru-sa-lem. 26Vua cai trị tất cả các vua từ sông Cái đến đất của người Phi-li-tin, và cho đến tận biên giới Ai Cập. 27Tại Giê-ru-sa-lem, vua làm cho bạc trở nên tầm thường như đá sỏi, và cây bá hương nhiều như cây sung mọc ở vùng Sơ-phê-la. 28Người ta đem ngựa từ Ai Cập và từ khắp nơi về cho Sa-lô-môn.
Sa-lô-môn qua đời
(I Vua 11:41-43)
29Các việc khác của Sa-lô-môn làm từ đầu đến cuối đều được chép trong sách của nhà tiên tri Na-than, trong sách tiên tri của A-hi-gia người Si-lô, và trong sách khải tượng của Giê-đô, nhà tiên kiến nói về Giê-rô-bô-am con của Nê-bát. 30Sa-lô-môn trị vì trên toàn thể Y-sơ-ra-ên trong bốn mươi năm tại Giê-ru-sa-lem. 31Sa-lô-môn an giấc cùng các tổ phụ mình và được an táng trong thành Đa-vít, thân phụ vua. Thái tử Rô-bô-am lên kế vị.
Bình luận
Sự chính trực và niềm đam mê
Sa-lô-môn 'đã hoàn tất việc xây cất đền thờ Đức Giê-hô-va và cung vua' (7:11). Ông tôn vinh Chúa qua những gì ông thực hiện.
Sử ký tập trung câu chuyện của ông về triều đại của Đa-vít và Sa-lô-môn xung quanh việc xây dựng nơi thờ phượng Đức Chúa Trời, đền thờ ở Giê-ru-sa-lem. Đối với ông, hầu như mọi thứ khác trong triều đại của ông đều trở nên vô nghĩa. Họ xây dựng nơi thờ phượng và Đức Chúa Trời ban phước dồi dào cho họ.
Danh tiếng của Sa-lô-môn lan rộng (như chúng ta đọc ở chương 8 và 9). Nữ hoàng Sê-ba (có lẽ ở Yemen ngày nay) đến thăm và vô cùng kinh ngạc trước những gì bà nhìn thấy (9:1–7) đến nỗi chính bà cũng ca ngợi Chúa (c.8). (Điều thú vị là, dưới ánh sáng của đoạn Tân Ước về phụ nữ, ở đây không có câu hỏi nào được nêu ra về một nữ quân vương cai trị một đất nước.)
Sự huy hoàng của Sa-lô-môn thật vĩ đại. Sau khi Sa-lô-môn xây xong đền thờ, Chúa hiện ra với ông và phán: '…nếu dân Ta, là dân được gọi bằng danh Ta, hạ mình xuống, cầu nguyện, tìm kiếm mặt Ta và từ bỏ con đường gian ác, thì từ trên trời Ta sẽ lắng nghe, tha thứ tội lỗi họ và chữa lành đất nước họ' (7:14).
Câu này rất nổi tiếng và thường được dùng làm khuôn mẫu cho việc thờ phượng và cầu nguyện. Trong đó chúng ta thấy được những điều kiện để có được sự liêm chính trong sự thờ phượng của mình. Chúng cũng là những điều kiện cần thiết cho sự phấn hưng. Dưới ánh sáng của COVID-19, cần lưu ý rằng bối cảnh trước mắt là khả năng xảy ra đại dịch (‘bệnh dịch’ c.13). Chúng ta thấy trong câu này chúng ta cần phải làm bốn điều:
Hạ mình
Cầu nguyện
Tìm kiếm mặt Chúa
Từ bỏ con đường gian ác
Sau đó, Đức Chúa Trời hứa rằng Ngài sẽ làm ba điều:
- Lắng nghe từ thiên đàng
- Tha thứ tội lỗi
- Cứu những vùng đất
Cầu nguyện
Lạy Chúa, hôm nay con muốn hạ mình xuống, cầu nguyện, tìm kiếm mặt Chúa và ăn năn tội lỗi của mình. Con cầu nguyện rằng Ngài sẽ lắng nghe từ thiên đàng và tha thứ cho tội lỗi của chúng con và cứu lấy đất nước của chúng con. Nguyện rằng chúng con sẽ tôn vinh Ngài và vui hưởng trong Ngài mãi mãi.
Pippa chia sẻ
II Sử ký 8:11 nói:
‘Sa-lô-môn cho rước công chúa Pha-ra-ôn từ thành Đa-vít lên cung điện mà vua đã xây cất cho bà, vì vua nói rằng: “Vợ ta sẽ KHÔNG ở trong cung Đa-vít, vua Y-sơ-ra-ên, vì Hòm Giao Ước của Đức Giê-hô-va đến nơi nào thì nơi đó là THÁNH.”'
Tôi cho rằng đó là vì con gái của Pha-ra-ôn không thờ phượng Đức Chúa Trời chứ không phải lý do nào khác khiến bà không thể sống ở đó!
App
Tải xuống ứng dụng Kinh Thánh Trong Một Năm dành cho thiết bị iOS hoặc Android và đọc theo mỗi ngày.
Đăng ký ngay bây giờ để nhận Kinh thánh trong một năm trong hộp thư đến của bạn mỗi sáng. Bạn sẽ nhận được một email mỗi ngày.
Book
Kinh thánh trong một năm bình luận có sẵn như là một cuốn sách.
- Mua từ Cửa hàng Alpha
- [Mua từ Nhà sách CLC](https://clcbookshops.com/product/bible-in-one-year-the-a-commentary-by-nicky-gumbel-hard-cover-gumbel-nicky-hodder-stoughton- 9781473677067)
Tham khảo
C. S. Lewis, *C. S. Lewis Selected Books: The Pilgrim's Regress / Prayer: Letter to Malcolm / Reflections on the Psalms / Till We Have Faces / The Abolition of Man *(HarperCollins, 2011), p.360
Trừ khi có quy định khác, các trích dẫn Kinh thánh lấy từ Kinh thánh, Phiên bản quốc tế mới được Anh hóa, Bản quyền © 1979, 1984, 2011 Biblica, trước đây là Hiệp hội Kinh thánh Quốc tế. Được sử dụng với sự cho phép của Nhà xuất bản Hodder & Stoughton, một công ty của Hachette Vương quốc Anh. Đã đăng ký Bản quyền. ‘NIV’ là nhãn hiệu đã đăng ký của Biblica. Số nhãn hiệu Vương quốc Anh 1448790.
Kinh thánh được đánh dấu (MSG) được lấy từ bản dịch Kinh Thánh Thông điệp. Bản quyền © 1993, 1994, 1995, 1996, 2000, 2001, 2002. Được sử dụng dưới sự cho phép của NavPress Publishing Group.