Ngày 352

Cách đọc và hiểu Kinh Thánh

Khôn ngoan Thi Thiên 144:9-15
Tân ước Khải huyền 8:1-9:12
Cựu Ước E-xơ-ra 1:1-2:67

Giới thiệu

Khi đọc và cố gắng hiểu Kinh Thánh, bạn có ba sự trợ giúp. Thứ nhất, bạn có Đức Thánh Linh sống trong bạn (1 Cô-rinh-tô 2:2-16). Thứ hai, bạn có sự giúp đỡ của Hội Thánh. Thật là kiêu ngạo khi nghĩ rằng Đức Thánh Linh chỉ nói với tôi. Ngài đã nói với những người khác trong quá khứ và Ngài tiếp tục nói với dân của Ngài. Phao-lô cầu nguyện rằng 'anh em có thể có quyền năng để hiểu, với tất cả các thánh đồ' (Ê-phê-sô 3:18, NRSV). Thứ ba, bạn có hiểu biết của lý trí - tâm trí của bạn. Phao-lô khuyến khích mỗi người "hoàn toàn tin chắc trong tâm trí mình" (Rô-ma 14:5). Khi giải thích Kinh Thánh, có ba câu hỏi chính bạn cần hỏi:

**1. Điều nầy thực sự nói lên điều gì? **

Cựu Ước được viết bằng tiếng Hê-bơ-rơ (và tiếng Aramaic), và Tân Ước bằng tiếng Hy Lạp. Nhưng bạn có thể tin rằng hầu hết các bản dịch hiện đại đều đáng tin cậy và chính xác.

**2. Có ý gì? **

Để trả lời câu hỏi này, bạn phải hỏi: Đó là loại văn học nào? Có phải là viết lịch sử? Thơ? Lời tiên tri? Khải huyền? Pháp luật? Trí tuệ? Phúc âm? Các đoạn văn cho ngày hôm nay có các thể loại văn học khác nhau (thơ, khải huyền và lịch sử), và do đó chúng ta đọc chúng theo những cách khác nhau.

Tiếp theo, hãy tìm xem điều nầy có ý nghĩa gì đối với người đầu tiên viết nó, và với những người lần đầu tiên đọc hoặc nghe nó. Sau đó hãy tìm xem, 'Có điều gì xảy ra sau đó để thay đổi sự hiểu biết của chúng ta không?' Ví dụ, sự đến của Chúa Giê-su tạo ra sự khác biệt nào đối với sự hiểu biết của chúng ta về các đoạn Cựu Ước? Cuối cùng, Kinh Thánh là tất cả về Chúa Giê-su (xin xem Giăng 5:39–40).

3. Điều này áp dụng cho cuộc sống của tôi như thế nào?

Để những gì chúng ta nhận được không chỉ là lý thuyết suông, bạn phải suy nghĩ cách áp dụng nó vào cuộc sống hàng ngày của bạn.

Khôn ngoan

Thi Thiên 144:9-15

9Lạy Đức Chúa Trời, con sẽ hát cho Ngài một bài ca mới, Dùng đàn hạc mười dây mà tấu khúc tôn vinh Ngài. 10Chúa đã cứu các vua, Và giải cứu Đa-vít, đầy tớ Chúa, khỏi thanh gươm tàn bạo.

11Xin giải cứu con thoát khỏi tay kẻ ngoại bang; Miệng của chúng buông lời dối gạt, Tay phải chúng là tay phải gian tà.

12Nguyện các con trai chúng con đang tuổi thanh xuân Giống như cây đâm chồi mạnh mẽ; Nguyện các con gái chúng con như những cây cột, Chạm trổ theo kiểu đền thờ. 13Nguyện các kho vựa chúng con được đầy tràn Với đủ thứ sản vật; Nguyện đàn chiên chúng con sinh sản hàng nghìn, hàng vạn Trong đồng ruộng của chúng con. 14Nguyện đàn bò chúng con sinh sản nhiều; Nguyện tường thành không bị chọc thủng, Dân không bị lưu đày, Và không có tiếng khóc than trên đường phố. 15Phước cho dân tộc nào được như vậy! Phước cho dân tộc nào có Giê-hô-va làm Đức Chúa Trời mình!

Bình luận

Hãy thành thật với Chúa (thơ)

Đức Chúa Trời muốn chúng ta sống thành thật với Ngài. Thi thiên không chỉ là lời cầu nguyện từ những người tốt đẹp sử dụng những từ ngữ trang trọng. Chúng thường khô khan và chưa trau chuốt; chúng bày tỏ sự trung thực, chân thật và cá nhân đối với Đức Chúa Trời.

Thánh vịnh được viết bằng ngôn ngữ thơ. Nhà thơ, Robert Burns, đã viết, "Tình yêu của tôi giống như một bông hồng đỏ." Ông ấy không nói điều đó theo nghĩa đen.

Phần lớn ngôn ngữ của thần học liên quan đến sự so sánh. Khi hai điều được so sánh, điều đó không có nghĩa là chúng giống nhau về mọi mặt.

Chẳng hạn:

'Nguyện các con trai chúng con đang tuổi thanh xuân Giống như cây đâm chồi mạnh mẽ; Nguyện các con gái chúng con như những cây cột, Chạm trổ theo kiểu đền thờ.' (câu 12, MSG).

Thánh vịnh cũng diễn tả những tình cảm rất con người. Ví dụ, trong đoạn văn của chúng ta hôm nay, tác giả Thi Thiên viết, "Xin giải cứu con thoát khỏi tay kẻ ngoại bang; Miệng của chúng buông lời dối gạt, Tay phải chúng là tay phải gian tà." (câu 11).

Thật ra không phải tất cả kẻ ngoại bang đều là kẻ nói dối và lừa gạt. Nhưng đôi khi tác giả bày tỏ sự cay đắng đối với Chúa và sự thù hận đối với người khác. Điều đó không có nghĩa là những cảm giác này là đúng, nhưng chúng là những phản ứng thẳng thắn, mà nhiều người trong chúng ta cũng cảm thấy vào những thời điểm khác nhau trong cuộc sống.

Đa-vít đang ở giữa chiến tranh và thường xuyên bị tấn công bởi các kẻ ngoại bang. Xung đột vũ trang là một thực tế của cuộc sống đối với ông ta, và trong bối cảnh này, ông cảm ơn Chúa vì đã huấn luyện đôi tay của mình cho chiến tranh. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chúng ta nên bắt chước những tình cảm này. Cả trong Tân Ước và trong Cựu Ước, chúng ta đáng ra phải có một tình yêu đặc biệt đối với kẻ ngoại bang và người ngoài.

Tuy nhiên, có những tình cảm khác mà bạn có thể được truyền cảm hứng để làm theo. Ví dụ, những lời của Đa-vít trong câu 9 truyền cảm hứng cho chúng ta thờ phượng Chúa. Ông tiếp tục nói về niềm khao khát của ông đối với phước lành của Chúa trên gia đình, công việc của ông và an ninh của đất nước ông. Ông kết thúc: 'Phước cho dân tộc nào được như vậy! Phước cho dân tộc nào có Giê-hô-va làm Đức Chúa Trời mình!' (c.15).

Cầu nguyện

Lạy Chúa, cảm ơn Ngài vì phước lành của Ngài ở trên Hội Thánh – những người tôn Ngài là Chúa. Hôm nay con thờ phượng Ngài và xin Ngài ban ơn lành trên gia đình con, công việc của con, các mục sư, thành phố và quốc gia của con.

Tân ước

Khải huyền 8:1-9:12

8 Ấn thứ bảy

1Khi Chiên Con mở ấn thứ bảy, trên trời yên lặng khoảng nửa giờ.

2Tôi thấy bảy thiên sứ đứng trước mặt Đức Chúa Trời, và họ được trao cho bảy chiếc kèn.

3Một thiên sứ khác cầm bình hương bằng vàng đến đứng bên bàn thờ. Vị nầy được ban cho nhiều hương để dâng lên cùng với những lời cầu nguyện của các thánh đồ trên bàn thờ bằng vàng ở trước ngai. 4Khói hương từ tay thiên sứ với những lời cầu nguyện của các thánh đồ bay lên trước mặt Đức Chúa Trời. 5Rồi thiên sứ lấy bình hương, bỏ đầy lửa nơi bàn thờ vào và ném xuống đất thì có những tiếng sấm, tiếng nói, những tia chớp và động đất.

Bảy kèn

6Sau đó, bảy thiên sứ cầm bảy chiếc kèn chuẩn bị thổi.

7Thiên sứ thứ nhất thổi kèn thì có mưa đá và lửa trộn lẫn với máu đổ xuống đất. Một phần ba đất bị thiêu cháy, một phần ba cây cối bị thiêu cháy, và tất cả cỏ xanh đều bị thiêu cháy.

8Thiên sứ thứ nhì thổi kèn thì có vật gì giống như quả núi lớn cháy rực bị ném xuống biển. Một phần ba biển biến thành máu, 9một phần ba sinh vật trong biển bị chết, và một phần ba tàu thuyền bị phá hủy.

10Thiên sứ thứ ba thổi kèn thì một ngôi sao lớn cháy như đuốc từ trời rơi xuống. Ngôi sao ấy rơi vào một phần ba các sông và các nguồn nước. 11Tên ngôi sao ấy là Ngải Cứu. Một phần ba nước hóa ra ngải cứu; nhiều người chết bởi nước nầy, vì nó đã trở thành đắng.

12Thiên sứ thứ tư thổi kèn thì một phần ba mặt trời, một phần ba mặt trăng và một phần ba các ngôi sao bị va chạm mạnh đến nỗi một phần ba của chúng trở nên tối, khiến một phần ba ban ngày không có ánh sáng, và ban đêm cũng vậy.

13Rồi tôi nhìn xem, và nghe một chim đại bàng đang bay giữa trời, kêu lớn: “Khốn thay! Khốn thay! Khốn thay cho những cư dân trên đất khi tiếng kèn mà ba thiên sứ khác sắp thổi lên.”

9 1Thiên sứ thứ năm thổi kèn, tôi thấy một ngôi sao từ trời rơi xuống đất; ngôi sao ấy được trao cho chìa khóa của vực sâu. 2Khi ngôi sao mở vực sâu thì có khói từ vực sâu bay lên như khói của một lò lửa lớn; mặt trời và không gian bị u ám bởi khói của vực sâu ấy. 3Từ luồng khói đó có những châu chấu bay ra khắp đất, và chúng được ban cho năng lực giống như năng lực của bọ cạp trên đất vậy. 4Chúng được bảo đừng làm hại cỏ trên đất, các loại tươi xanh và cây cối mà chỉ làm hại những người không có ấn của Đức Chúa Trời ở trên trán. 5Chúng không được phép giết chết, nhưng được phép hành hạ họ trong năm tháng. Sự đau đớn do chúng gây ra giống như sự đau đớn của người bị bò cạp chích. 6Trong những ngày ấy, người ta sẽ tìm kiếm sự chết mà không gặp; họ mong được chết nhưng sự chết tránh xa.

7Hình dạng của những châu chấu giống như ngựa sẵn sàng cho chiến trận. Trên đầu chúng có cái gì giống như mão miện bằng vàng; mặt chúng như mặt người; 8tóc như tóc phụ nữ; răng như răng sư tử. 9Chúng có giáp che ngực như giáp bằng sắt; tiếng cánh của chúng như tiếng của nhiều chiến xa do ngựa kéo đang xông vào chiến trường. 10Chúng có đuôi và nọc giống như bò cạp; những đuôi nầy có sức mạnh làm hại loài người trong năm tháng. 11Vua của chúng là sứ giả của vực sâu, có tên trong tiếng Hê-bơ-rơ là A-ba-đôn, và trong tiếng Hi Lạp là A-pô-li-ôn.

12Khổ nạn thứ nhất đã qua. Nầy, còn hai khổ nạn nữa đang đến.

Bình luận

Tạo sự khác biệt bằng lời cầu nguyện của bạn (khải huyền)

Thơ văn của sách khải huyền là thơ văn của những giấc mơ và khải tượng, của những bí ẩn thiêng liêng và sự kết thúc của lịch sử. Nó có đầy đủ các biểu tượng cần được giải mã. Trong đó, chúng ta có cái nhìn thoáng qua về những điều thông thường trong hiểu biết giới hạn của con người; Hình ảnh phức tạp và tuyệt vời có thể giúp chúng ta bắt đầu nắm bắt những điều vượt quá sự hiểu biết.

Thơ văn của sách khải huyền nổi tiếng là khó giải thích. Trong Kinh Thánh, Thơ văn nầy được tìm thấy ở một số nơi - đặc biệt là các sách của Đa-ni-ên và Khải huyền.

Thật sự, việc đọc từ nguyên bản sách khải huyền không hề dễ hiểu. trong đó Chúa Giê-su kêu gọi thế giới ăn năn và lời cảnh báo của Ngài về sự phán xét sắp tới.

Trước khi phán xét: "Khi Chiên Con mở ấn thứ bảy, trên trời yên lặng khoảng nửa giờ." (8:1, MSG). Trong giai đoạn hồi hộp căng thẳng này, toàn bộ thiên đàng im lặng, có thể tượng trưng cơ hội cho những lời cầu nguyện của dân sự Đức Chúa Trời được trình dâng và nghe thấy.

Bảy tiếng kèn (c.2) cho thấy Ngài đang làm mọi thứ trong khả năng của mình để đưa chúng ta đến sự ăn năn. Mong muốn của Đức Chúa Trời là cảnh báo chúng ta về những hậu quả không thể tránh khỏi của đường lối chúng ta. Bốn tiếng kèn đầu tiên báo trước sự tàn phá đối với thiên nhiên (c.6-13). Có thảm họa môi trường (c.7), hỗn loạn trong tạo vật (c.8-9), bi kịch của con người (c.10-11) và gây hại cho vũ trụ (c.12). Sau đó, thiên sứ thứ năm và thứ sáu báo trước thiệt hại cho con người (9:1-21).

Ở giữa điều này, bạn có thể thấy tầm quan trọng của những lời cầu nguyện của bạn. "Một thiên sứ khác ...... Vị nầy được ban cho nhiều hương để dâng lên cùng với những lời cầu nguyện của các thánh đồ ....Khói hương từ tay thiên sứ với những lời cầu nguyện của các thánh đồ bay lên trước mặt Đức Chúa Trời.' (8:3-4). Hiệu quả chính xác của những lời cầu nguyện không rõ ràng, nhưng điều rõ ràng là những lời cầu nguyện của bạn được Đức Chúa Trời lắng nghe. Lời cầu nguyện của bạn rất quan trọng. Chúng tạo ra ảnh hưởng sâu rộng đến bạn.

Chúng ta sống trong thời gian giữa lần tái lâm thứ nhất và thứ hai của Đấng Christ. Chúng ta thấy phần lớn những gì được viết trong các chương này đã xảy ra trong thế giới của chúng ta. Chúng ta nên có đáp ứng thích hợp qua sự ăn năn và cầu nguyện.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, con muốn kiểm điểm đời sống của chính con và ăn năn bất kỳ tội lỗi nào đã phạm. Cảm ơn Ngài đã nghe lời cầu nguyện của con và điều đó ảnh hưởng sâu rộng đến con.

Cựu Ước

E-xơ-ra 1:1-2:67

1 Vua Si-ru ban sắc chỉ cho phép xây dựng lại đền thờ Giê-ru-sa-lem

1Năm thứ nhất dưới triều Si-ru, vua Ba Tư, Đức Giê-hô-va muốn làm ứng nghiệm lời Ngài đã phán bởi miệng Giê-rê-mi, nên Ngài thúc giục lòng Si-ru, vua Ba Tư, ra sắc chỉ và công bố trên toàn vương quốc mình rằng:

2“Si-ru, vua Ba Tư, nói:

‘Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các tầng trời đã ban tất cả các vương quốc trên đất cho trẫm và chính Ngài bảo trẫm xây cất cho Ngài một đền thờ tại Giê-ru-sa-lem, trong xứ Giu-đa. 3Trong các ngươi, ai thuộc về con dân Ngài — xin Đức Chúa Trời ở cùng người ấy — hãy lên Giê-ru-sa-lem trong xứ Giu-đa để xây cất đền thờ của Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Ngài vẫn ngự tại Giê-ru-sa-lem. 4Và dân chúng ở những nơi mà người Giu-đa còn sót lại đang sinh sống phải giúp đỡ họ bằng bạc, vàng, của cải, súc vật, cùng với những lễ vật lạc hiến cho đền thờ của Đức Chúa Trời ở tại Giê-ru-sa-lem.’”

5Bấy giờ, những trưởng tộc của Giu-đa và Bên-gia-min, những thầy tế lễ và người Lê-vi, cùng tất cả những người mà Đức Chúa Trời thúc giục trong lòng muốn đi lên xây cất đền thờ của Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem đều sẵn sàng ra đi. 6Tất cả những người lân cận họ đều giúp đỡ họ những vật dụng bằng bạc, bằng vàng, của cải, súc vật, và những vật quý giá, kể cả các lễ vật lạc hiến khác.

7Vua Si-ru cũng trả lại những vật dụng của đền thờ Đức Giê-hô-va mà Nê-bu-cát-nết-sa đã đem đi khỏi Giê-ru-sa-lem và để trong miếu thờ thần của vua. 8Si-ru, vua Ba Tư, truyền thủ quỹ Mít-rê-đát, lấy các vật dụng ấy ra, đếm và giao cho Sết-ba-xa, tổng đốc của Giu-đa.

9Đây là bảng kiểm kê các vật dụng ấy:

ba mươi chậu bằng vàng, một nghìn chậu bằng bạc, hai mươi chín con dao, 10ba mươi chén bằng vàng, bốn trăm mười chén bằng bạc loại hạng nhì, và một nghìn vật dụng khác.

11Tổng số những vật dụng bằng vàng và bạc là năm nghìn bốn trăm cái. Khi những người bị lưu đày ở Ba-by-lôn được dẫn về Giê-ru-sa-lem thì Sết-ba-xa đem theo luôn tất cả các vật ấy.

2 Danh sách dân Giu-đa trở về sau lưu đày

1Đây là những người ở tỉnh Giu-đa bị Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, bắt lưu đày qua Ba-by-lôn. Họ trở về Giê-ru-sa-lem và xứ Giu-đa, mỗi người về trong thành của mình. 2Họ trở về cùng với Xô-rô-ba-bên, Giê-sua, Nê-hê-mi, Sê-ra-gia, Rê-ê-gia, Mạc-đô-chê, Binh-san, Mít-bạt, Biết-vai, Rê-hum và Ba-a-na.

Đây là danh sách những người nam của dân Y-sơ-ra-ên:

3Con cháu của Pha-rốt có hai nghìn một trăm bảy mươi hai người. 4Con cháu của Sê-pha-tia có ba trăm bảy mươi hai người. 5Con cháu của A-rách có bảy trăm bảy mươi lăm người. 6Con cháu của Pha-hát Mô-áp, còn gọi là con cháu của Giê-sua và Giô-áp, có hai nghìn tám trăm mười hai người. 7Con cháu của Ê-lam có một nghìn hai trăm năm mươi bốn người. 8Con cháu của Xát-tu có chín trăm bốn mươi lăm người. 9Con cháu của Xác-cai có bảy trăm sáu mươi người. 10Con cháu của Ba-ni có sáu trăm bốn mươi hai người. 11Con cháu của Bê-bai có sáu trăm hai mươi ba người. 12Con cháu của A-gát có một nghìn hai trăm hai mươi hai người. 13Con cháu của A-đô-ni-cam có sáu trăm sáu mươi sáu người. 14Con cháu của Biết-vai có hai nghìn không trăm năm mươi sáu người. 15Con cháu của A-đin có bốn trăm năm mươi bốn người. 16Con cháu của A-te, thuộc về Ê-xê-chia, có chín mươi tám người. 17Con cháu của Bết-sai có ba trăm hai mươi ba người. 18Con cháu của Giô-ra có một trăm mười hai người. 19Con cháu của Ha-sum có hai trăm hai mươi ba người. 20Con cháu của Ghi-ba có chín mươi lăm người.

21Những người ở Bết-lê-hem có một trăm hai mươi ba người. 22Những người ở Nê-tô-pha có năm mươi sáu người. 23Những người ở A-na-tốt có một trăm hai mươi tám người. 24Con cháu của Ách-ma-vết có bốn mươi hai người. 25Con cháu của Ki-ri-át A-rim, Kê-phi-ra, và Bê-ê-rốt có bảy trăm bốn mươi ba người. 26Con cháu của Ra-ma và Ghê-ba có sáu trăm hai mươi mốt người. 27Những người ở Mích-ma có một trăm hai mươi hai người. 28Những người ở Bê-tên và A-hi có hai trăm hai mươi ba người. 29Con cháu của Nê-bô có năm mươi hai người. 30Con cháu của Mách-bi có một trăm năm mươi sáu người. 31Con cháu của Ê-lam khác có một nghìn hai trăm năm mươi bốn người. 32Con cháu của Ha-rim có ba trăm hai mươi người. 33Con cháu của Lót, Ha-đít, và Ô-nô có bảy trăm hai mươi lăm người. 34Những người ở Giê-ri-cô có ba trăm bốn mươi lăm người. 35Con cháu của Sê-na có ba nghìn sáu trăm ba mươi người.

36Những thầy tế lễ gồm có: con cháu của Giê-đa-gia, thuộc về gia đình Giê-sua, tất cả là chín trăm bảy mươi ba người.

37Con cháu của Y-mê có một nghìn không trăm năm mươi hai người. 38Con cháu của Pha-su-rơ có một nghìn hai trăm bốn mươi bảy người. 39Con cháu của Ha-rim có một nghìn không trăm mười bảy người.

40Những người Lê-vi gồm có: con cháu của Giê-sua, Cát-mi-ên, và con cháu của Hô-đa-via, tất cả là bảy mươi bốn người.

41Những ca sĩ gồm có: con cháu của A-sáp tất cả là một trăm hai mươi tám người.

42Con cháu của những người gác cổng gồm có: con cháu của Sa-lum, con cháu của A-te, con cháu của Tanh-môn, con cháu của A-cúp, con cháu của Ha-ti-ta, và con cháu của Sô-bai, tổng cộng là một trăm ba mươi chín người.

43Những người phục vụ trong đền thờ gồm có: con cháu Xi-ha, con cháu Ha-su-pha, con cháu Ta-ba-ốt,

44con cháu Kê-rốt, con cháu Sia-ha, con cháu Ba-đôn, 45con cháu Lê-ba-na, con cháu Ha-ga-ba, con cháu A-cúp, 46con cháu Ha-gáp, con cháu Sam-lai, con cháu Ha-nan, 47con cháu Ghi-đên, con cháu Ga-cha, con cháu Rê-a-gia, 48con cháu Rê-xin, con cháu Nê-cô-đa, con cháu Ga-xam, 49con cháu U-xa, con cháu Pha-sê-a, con cháu Bê-sai, 50con cháu A-sê-na, con cháu Mê-u-nim, con cháu Nê-phu-sim, 51con cháu Bác-búc, con cháu Ha-cu-pha, con cháu Ha-rua, 52con cháu Ba-lút, con cháu Mê-hi-đa, con cháu Hạt-sa, 53con cháu Bạt-cô, con cháu Si-sê-ra, con cháu Tha-mác, 54con cháu Nê-xia, và con cháu Ha-ti-pha.

55Con cháu của các đầy tớ Sa-lô-môn gồm có: con cháu Sô-tai, con cháu Sô-phê-rết, con cháu Phê-ru-đa,

56con cháu Gia-a-la, con cháu Đạt-côn, con cháu Ghi-đên, 57con cháu Sê-pha-tia, con cháu Hát-tinh, con cháu Bô-kê-rết Ha-xê-ba-im, và con cháu A-mi.

58Tổng cộng những người phục vụ trong đền thờ và con cháu của những đầy tớ Sa-lô-môn là ba trăm chín mươi hai người.

59Những người sau đây trở về từ Tên Mê-la, Tên Hạt-sa, Kê-rúp A-đan, và Y-mê, nhưng không thể chứng minh gia tộc và phả hệ của họ có thuộc về dòng dõi Y-sơ-ra-ên hay không:

60con cháu Đê-la-gia, con cháu Tô-bi-gia, và con cháu Nê-cô-đa, có sáu trăm năm mươi hai người.

61Con cháu của các thầy tế lễ gồm có: con cháu Ha-ba-gia, con cháu Ha-cốt, và con cháu Bạt-xi-lai (người nầy cưới một trong các con gái của Bạt-xi-lai ở Ga-la-át, nên được gọi bằng tên ấy.)

62Những người nầy tìm kiếm tên mình trong gia phả nhưng không tìm được nên người ta kể họ là ô uế, và bị truất khỏi chức tế lễ. 63Tổng đốc cấm họ ăn những vật chí thánh cho đến chừng nào có thầy tế lễ dùng U-rim và Thu-mim mà cầu hỏi Đức Chúa Trời.

64Cả hội chúng đếm được bốn mươi hai nghìn ba trăm sáu mươi người, 65không kể bảy nghìn ba trăm ba mươi bảy tôi trai tớ gái của họ và hai trăm nam nữ ca sĩ. 66Họ có bảy trăm ba mươi sáu con ngựa, hai trăm bốn mươi lăm con la, 67bốn trăm ba mươi lăm con lạc đà, và sáu nghìn bảy trăm hai mươi con lừa.

Bình luận

Hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời cho cuộc đời bạn (lịch sử)

Đức Chúa Trời có một mục đích cho cuộc đời bạn. Bạn được kêu gọi để làm một điều gì đó đặc biệt cho Ngài. Sách Ê-xơ-ra cho chúng ta thấy rằng ngay cả khi đó là kế hoạch của Đức Chúa Trời, sẽ có rất nhiều sự chống đối và kháng cự. Nhưng Đức Chúa Trời ở cùng bạn (1:3) và kế hoạch của Đức Chúa Trời cuối cùng sẽ thành công.

Trong sách E-xơ-ra, chúng ta thấy mình ở trong lãnh thổ quen thuộc hơn của lịch sử. Các sách lịch sử của Kinh Thánh không chỉ đơn giản là ghi chép về những gì đã xảy ra, chúng còn cung cấp những lời giải thích về các sự kiện mà chúng mô tả. Viết lịch sử được xem như một hoạt động tiên tri, vừa ghi lại các sự kiện vừa giải thích hoặc tiết lộ cách Đức Chúa Trời hành động thông qua các sự kiện được mô tả.

Câu mở đầu của E-xơ-ra là một ví dụ tuyệt vời về sự kết hợp giữa sự thật và sự giải thích này: 'Năm thứ nhất dưới triều Si-ru, vua Ba Tư, Đức Giê-hô-va muốn làm ứng nghiệm lời Ngài đã phán bởi miệng Giê-rê-mi, nên Ngài thúc giục lòng Si-ru, vua Ba Tư, ra sắc chỉ và công bố trên toàn vương quốc mình' (câu 1). (Các bản khắc đương thời cho thấy Si-ru, vua Ba Tư cũng cho phép các quốc gia bị giam cầm khác trở về nhà.)

Đồng thời nhà văn giải thích ý nghĩa của những sự kiện lịch sử này. Ông nhấn mạnh việc ứng nghiệm lời tiên tri trước đó của Giê-rê-mi rằng cuộc lưu đày sẽ kéo dài khoảng bảy mươi năm (Giê-rê-mi 25:12 và 29:10). Đây không chỉ là một bài học trong lịch sử cổ đại; đó là một sự mặc khải của Thượng Đế. Nó cho chúng ta thấy sự thành tín của Đức Chúa Trời đối với dân Ngài; nó nhắc nhở chúng ta rằng Ngài chính là Chúa cứu thế, và cho thấy Ngài đang chỉ huy và kiểm soát lịch sử toàn nhân loại.

Các sự kiện mà E-xơ-ra mô tả trong các chương này diễn ra vào năm 536 trước Công nguyên. Sau bảy mươi năm suy tàn, thất bại và lưu đày, đã có một khởi đầu mới khi dân sự Đức Chúa Trời được phép trở về nhà.

Sắc lệnh của vua Si-ru cho phép người Do Thái trở về và xây dựng lại đền thờ ở Giê-ru-sa-lem. Ê-xơ-ra tập trung vào việc xây dựng lại đền thờ, và Nê-hê-mi tập trung vào việc xây dựng lại các bức tường của Giê-ru-sa-lem. Tuy nhiên, động cơ cơ bản của họ hoàn toàn giống nhau. Họ quan tâm đến vinh quang của Đức Chúa Trời và dân sự của Đức Chúa Trời. Cả hai, theo những cách khác nhau của họ đã hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời cho cuộc sống của họ.

Hôm nay, điều nầy cũng giống như vậy đối với bạn. Bạn có một mục đích duy nhất cho cuộc sống của bạn. Tất cả chúng ta đều có những kế hoạch khác nhau, tùy thuộc vào công việc, niềm đam mê và ân tứ khác nhau của chúng ta, nhưng động cơ cơ bản của chúng ta nên giống nhau - mối quan tâm đến vinh quang của Đức Chúa Trời và dân sự của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời sẽ hoàn thành mục đích của Ngài dành cho bạn.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, con muốn sẵn sàng cho Ngài để hoàn thành mục đích của Ngài dành cho con. Cầu xin Ngài sử dụng cuộc sống của con đem lại vinh quang cho danh Ngài.

Pippa chia sẻ

Tôi vừa đọc qua danh sách dài những cái tên trở về từ nơi lưu đày trong E-xơ-ra 2. Họ đếm người vì mọi người đếm.

reader

App

Tải xuống ứng dụng Kinh Thánh Trong Một Năm dành cho thiết bị iOS hoặc Android và đọc theo mỗi ngày.

reader

Email

Đăng ký ngay bây giờ để nhận Kinh thánh trong một năm trong hộp thư đến của bạn mỗi sáng. Bạn sẽ nhận được một email mỗi ngày.

reader

Website

Bắt đầu đọc sự tận tâm của ngày hôm nay ngay tại đây trên trang web BiOY.

Read now
reader

Book

Kinh thánh trong một năm bình luận có sẵn như là một cuốn sách.

Tham khảo

Unless otherwise stated, Scripture quotations taken from the Holy Bible, New International Version Anglicised, Copyright © 1979, 1984, 2011 Biblica, formerly International Bible Society. Used by permission of Hodder & Stoughton Publishers, an Hachette UK company. All rights reserved. ‘NIV’ is a registered trademark of Biblica. UK trademark number 1448790.

Scripture marked (MSG) taken from The Message. Copyright © 1993, 1994, 1995, 1996, 2000, 2001, 2002. Used by permission of NavPress Publishing Group.

Kinh Thánh trong một năm

  • Introduction
  • Wisdom Bible
  • Wisdom Commentary
  • New Testament Bible
  • New Testament Commentary
  • Old Testament Bible
  • Old Testament Commentary
  • Pippa Adds

This website stores data such as cookies to enable necessary site functionality and analytics. Find out more