Ngày 362

Ca Ngợi Chúa

Khôn ngoan Thi Thiên 148:1-6
Tân ước Khải huyền 18: 17-19: 10
Cựu Ước Nê-hê-mi 7:4-8:18

Giới thiệu

Hơn 55 triệu người đã xem một đoạn clip trên Youtube về những người khách hàng đang ăn trưa mà không biết gì về bất ngờ mình sẽ chứng kiến. Một cô gái trẻ, trông có vẻ là đang thưởng thức bữa trưa của mình trong một khu ẩm thực, đã đứng dậy. Cô ấy dường như đang nghe điện thoại. Cô bắt đầu hát điệp khúc của bài 'Ha-lê-lu-gia'. Xung quanh cô, hơn 100 ca sĩ opera (đã được sắp xếp từ trước) lần lượt đứng lên và hát cùng nhau.

Messiah là nhạc phẩm nổi tiếng nhất của George Frederick Handel. Bài hát kể câu chuyện về Chúa Giê-su – Đấng Mê-si-a. Phần hai nói về cái chết của Ngài trên thập tự giá, sự sống lại và sự thăng thiên của Ngài. Nó kết thúc với điệp khúc 'Ha-lê-lu-gia'. Vào mùa xuân năm 1742, Vua George II đã đứng dậy khi những nốt nhạc đầu tiên của điệp khúc 'Ha-lê-lu-gia' khải hoàn vang lên. Nghi thức hoàng gia luôn yêu cầu rằng, bất cứ khi nào quốc vương đứng, mọi người có mặt tại đó cũng cần phải đứng lên. Vì vậy, toàn bộ khán giả và dàn nhạc đã đứng dậy. Vua George II đã thừa nhận rằng chính ông cũng phải vâng phục Đức Chúa Trời là Chúa của các Chúa và Vua của các Vua.

Từ 'Ha-lê-lu-gia' là một lời mời gọi thờ phượng - nó có nghĩa đen là 'Ngợi khen (Hallal) Chúa' (Yahweh). Nó xuất hiện hai mươi bốn lần trong Cựu Ước (chủ yếu trong các Thi thiên) và bốn lần trong Tân Ước - một lần trong số đó nằm trong đoạn Kinh Thánh của chúng ta cho bài học ngày hôm nay.

Khôn ngoan

Thi Thiên 148:1-6

Muôn vật ca ngợi Đức Giê-hô-va

1Ha-lê-lu-gia! Từ các tầng trời, hãy ca ngợi Đức Giê-hô-va! Trong các nơi cao, hãy ca ngợi Ngài. 2Hỡi các thiên sứ Ngài, hãy ca ngợi Ngài! Hỡi cả thiên binh Ngài, hãy ca ngợi Ngài! 3Hỡi mặt trời, mặt trăng, hãy ca ngợi Ngài! Hỡi tất cả các vì sao sáng, hãy ca ngợi Ngài! 4Hỡi trời của các tầng trời, Hỡi nguồn nước trên các tầng trời, Hãy ca ngợi Ngài!

5Muôn vật hãy ca ngợi danh Đức Giê-hô-va, Vì Ngài ra lệnh, tất cả đều được dựng nên. 6Ngài thiết lập các vật ấy vững chắc đến đời đời vô cùng; Ngài ban các quy luật để chúng không thể vượt qua.

Bình luận

Những Thơ Thánh Ca Ngợi Chúa

Tại các buổi biểu diễn nhạc rock, các trận đấu bóng đá và các sự kiện thể thao lớn khác, chúng ta thấy những cảnh tượng vô cùng đặc biệt của sự cuồng nhiệt. Tuy nhiên, tất cả những điều này sẽ trở nên vô nghĩa so với sự thờ phượng Đức Chúa Trời một cách hết lòng của chúng ta.

Những lời mở đầu của Thi thiên này là, 'Ha-lê-lu-gia! Từ các tầng trời, hãy ca ngợi Đức Giê-hô-va!' (c.1, theo bản dịch MSG). Trong năm chương Thi Thiên cuối cùng (Thi thiên 146-150) mỗi Thi thiên đều bắt đầu và kết thúc bằng 'Ha-lê-lu-gia'. Các đoạn Thi Thiên, cũng như Tân Ước và toàn bộ Kinh Thánh, đều kết thúc bằng lời khen ngợi, phước lành và niềm vui sướng.

"Ha-lê-lu-gia! Từ các tầng trời, hãy ca ngợi Đức Giê-hô-va! Trong các nơi cao, hãy ca ngợi Ngài. Hỡi các thiên sứ Ngài, hãy ca ngợi Ngài!" (c.1b-2a, theo bản dịch HCSB).

Ngay cả các thiên sứ cũng ngợi khen Đức Chúa Trời. Như chúng ta sẽ đọc trong đoạn Kinh Thánh ở Tân Ước hôm nay, khi Giăng nhìn thấy một trong các thiên sứ, ông đã quỳ xuống và thờ phượng thiên sứ này. Nhưng thiên sứ nói với anh ta, "Đừng làm như vậy, ta là bạn đồng lao với ngươi và các anh em ngươi, là những người giữ lời chứng của Đức Chúa Giê-su. Hãy thờ lạy Đức Chúa Trời." (Khải huyền 19:10).

Hầu như mọi đoạn Thi Thiên đều có thể trở thành lời cầu nguyện và ngợi khen của chúng ta:

Cầu nguyện

"Hỡi cả thiên binh Ngài, hãy ca ngợi Ngài! Hỡi mặt trời, mặt trăng, hãy ca ngợi Ngài! Hỡi tất cả các vì sao sáng, hãy ca ngợi Ngài! Hỡi trời của các tầng trời, Hỡi nguồn nước trên các tầng trời, Hãy ca ngợi Ngài! Muôn vật hãy ca ngợi danh Đức Giê-hô-va" (Thi Thiên 148:2b-5a).

Tân ước

Khải huyền 18: 17-19: 10

18

17Vì trong một giờ, sự giàu có lớn của nó đã bị tiêu hủy.” Các thuyền trưởng, các hành khách, các thủy thủ và tất cả các người buôn bán trên biển đều đứng xa; 18khi thấy khói từ lửa thiêu cháy nó thì họ kêu lên: “Chưa bao giờ có thành phố nào vĩ đại như thành phố nầy!” 19Họ lấy bụi rắc trên đầu mình, khóc lóc, kêu than, sầu muộn, mà nói: “Khốn thay! Khốn thay! Thành phố vĩ đại nầy, nơi bởi sự giàu có của nó đã làm giàu cho tất cả những người có tàu trên biển; thế mà chỉ trong một giờ đã trở nên hoang tàn! 20Hỡi trời, hãy vui mừng vì nó! Các thánh đồ, các sứ đồ, các nhà tiên tri cũng hãy vui mừng đi! Vì Đức Chúa Trời đã kết án nó theo cách nó đã đối xử với các ngươi.” 21Bấy giờ, một thiên sứ đầy uy lực lấy một tảng đá như cối xay lớn ném xuống biển và nói: “Ba-by-lôn, thành phố vĩ đại sẽ bị ném xuống như vậy, và sẽ không ai tìm thấy nó nữa. 22Không ai còn nghe thấy nơi ngươi tiếng người chơi thụ cầm, tiếng kẻ ca hát, tiếng người thổi sáo, kẻ thổi kèn nữa. Nơi ngươi sẽ không tìm thấy một người thợ của bất cứ ngành nghề nào; và tiếng cối xay cũng sẽ không còn nghe thấy nữa. 23Ánh sáng đèn sẽ không chiếu sáng nơi ngươi nữa; tiếng cô dâu chú rể cũng sẽ không còn được nghe thấy nơi ngươi, vì các thương gia của ngươi là những người quyền thế trên đất, và vì mọi dân tộc đều bị tà thuật của ngươi lừa dối. 24Và tại thành nầy, người ta tìm thấy máu của các nhà tiên tri, các thánh đồ và tất cả những người bị giết trên đất.”

19

Bài ca về sự hủy diệt Ba-by-lôn

1Sau đó, tôi nghe ở trên trời như có tiếng lớn của một đoàn người đông đảo nói rằng: “Ha-lê-lu-gia! Sự cứu chuộc, vinh quang và quyền năng thuộc về Đức Chúa Trời chúng ta. 2Vì những sự phán xét của Ngài là chân thật và công minh. Ngài đã phán xét đại kỹ nữ, kẻ đã dùng sự dâm loạn của mình làm hư hỏng đất; và Ngài đã báo thù về máu của các đầy tớ Ngài do kỹ nữ ấy làm đổ ra.” 3Họ nói lần thứ hai: “Ha-lê-lu-gia! Khói của nó bay lên đời đời!” 4Hai mươi bốn trưởng lão và bốn sinh vật phủ phục và thờ lạy Đức Chúa Trời là Đấng ngồi trên ngai, và nói: “A-men! Ha-lê-lu-gia!” 5Có tiếng từ ngai bảo rằng: “Tất cả các đầy tớ của Đức Chúa Trời chúng ta, những người kính sợ Ngài, cả nhỏ lẫn lớn, hãy ca ngợi Ngài!”

Lễ cưới Chiên Con

6Rồi tôi nghe có tiếng như tiếng của một đoàn người đông đảo, như tiếng của nhiều dòng nước, như tiếng sấm lớn, nói rằng: “Ha-lê-lu-gia! Vì Chúa là Đức Chúa Trời Toàn Năng của chúng ta trị vì. 7Chúng ta hãy vui mừng hớn hở, hãy tôn vinh Ngài, vì lễ cưới Chiên Con đã đến và Vợ Ngài đã chuẩn bị mình sẵn sàng. 8Nàng đã được ban cho áo bằng vải gai mịn sáng chói và tinh khiết để mặc vào!” (vải gai mịn là những việc công chính của các thánh đồ). 9Thiên sứ nói cùng tôi rằng: “Hãy viết: Phước cho những người dự tiệc cưới Chiên Con!” Thiên sứ lại nói: “Đây là những lời chân thật của Đức Chúa Trời.” 10Tôi phủ phục dưới chân thiên sứ để thờ lạy, nhưng thiên sứ bảo: “Đừng làm như vậy, ta là bạn đồng lao với ngươi và các anh em ngươi, là những người giữ lời chứng của Đức Chúa Jêsus. Hãy thờ lạy Đức Chúa Trời. Vì lời chứng của Đức Chúa Jêsus là tinh thần của lời tiên tri.”

Đấng Thành Tín và Chân Thật

11Bấy giờ tôi thấy trời mở ra, và kìa, có một con ngựa trắng! Đấng cưỡi ngựa có tên là THÀNH TÍN VÀ CHÂN THẬT; Ngài phán xét và chiến đấu trong sự công chính. 12Mắt Ngài như ngọn lửa; trên đầu Ngài có nhiều mão triều thiên, trên có đề một danh mà ngoài Ngài không ai biết được. 13Ngài mặc áo đã được nhúng trong máu. Danh Ngài được gọi là LỜI ĐỨC CHÚA TRỜI. 14Các đạo quân trên trời đều mặc vải gai mịn, trắng và tinh khiết, cưỡi ngựa trắng đi theo Ngài. 15Từ miệng Ngài có một lưỡi gươm bén dùng để đánh các nước; Ngài sẽ cai trị họ bằng một cây gậy sắt. Ngài giày đạp thùng ép nho của cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời Toàn Năng. 16Trên áo và trên đùi Ngài có ghi một danh: VUA CỦA CÁC VUA, CHÚA CỦA CÁC CHÚA.

Chiến thắng con thú và kẻ tiên tri giả

17Rồi tôi thấy một thiên sứ đứng trong mặt trời, lớn tiếng gọi các loài chim chóc bay giữa trời: “Hãy đến, hãy tụ họp lại để dự tiệc lớn của Đức Chúa Trời, 18để ăn thịt các vua, thịt các tướng lĩnh, thịt những người có thế lực, thịt ngựa và những người cưỡi ngựa, thịt của tất cả mọi người, cả tự do lẫn nô lệ, cả nhỏ lẫn lớn.” 19Tôi thấy con thú và các vua trên đất cùng với quân đội của họ tập trung lại để tranh chiến với Đấng cưỡi ngựa và quân đội của Ngài. 20Nhưng con thú bị bắt, và tiên tri giả — kẻ đã thực hiện những dấu lạ trước mặt con thú, để lừa dối những người đã nhận dấu của con thú và những người thờ lạy hình tượng nó — cũng bị bắt. Cả hai đều bị quăng sống xuống hồ lửa lưu huỳnh đang bừng cháy. 21Những người còn lại đều bị giết bằng thanh gươm ra từ miệng của Đấng cưỡi ngựa; tất cả chim chóc đều ăn thịt họ no nê.

Bình luận

Bữa tiệc ca ngợi Chúa

Cha tôi là một người Do Thái gốc Đức. Nhiều người trong gia đình ông đã phải chịu đựng và chết trong các trại tập trung dưới đế chế độc ác của Đức Quốc xã. Đế chế đó đã chấm dứt. Không lâu sau đó, một đế chế tà ác khác xuất hiện. Ở nước Nga Xô viết trong thời kỳ Stalin lãnh đạo, ít nhất 20 triệu người đã bị sát hại. Con dân Chúa bị cầm tù, tra tấn và giết hại. Ngày nay có ISIS, Bắc Triều Tiên và các chế độ tà ác khác trên khắp thế giới.

Đoạn Kinh Thánh trong Tân Ước của ngày hôm nay bắt đầu với sự hủy diệt hoàn toàn thành phố lớn 'Ba-by-lôn'. Chúng ta có thể thấy rằng đây là một cách mô tả, không chỉ là về sự hủy diệt của Đế chế La Mã, là điều mà tác giả có trong tâm trí, mà còn là sự hủy diệt của mọi 'Ba-by-lôn' đã phát triển mạnh mẽ trong suốt chiều dài lịch sử.

'Ba-by-lôn' cũng có thể là đại diện cho Đế chế La Mã, Đế chế thứ ba, nước Nga dưới sự lãnh đạo của Stalin, Isis và tất cả các chế độ xấu xa khác, bao gồm chủ nghĩa chuyên chế và các hệ thống triết học. Cả dân tộc bị dẫn đi trong sự lạc lối (18:23) và con dân Chúa bị bách hại: "Và tại thành nầy, người ta tìm thấy máu của các nhà tiên tri, các thánh đồ và tất cả những người bị giết trên đất." (câu 24a).

Đó là lý do tại sao có sự vui mừng lớn như vậy khi quyền lực của những đế chế này bị chấm dứt. Các ca đoàn trên trời hát 'Ha-lê-lu-gia':

"Sau đó, tôi nghe ở trên trời như có tiếng lớn của một đoàn người đông đảo nói rằng: “Ha-lê-lu-gia!" (19:1). Họ ngợi khen Đức Chúa Trời rằng công lý đã được thực hiện. Sự phán xét của Đức Chúa Trời là chân thật và công minh: 'Hỡi Thiên đàng, hãy vui mừng... Vì Đức Chúa Trời đã kết án nó; Mọi điều sai trái mà anh em phải chịu đựng do nó đều bị phán xét' (18:20, theo bản dịch MSG).

"Ha-lê-lu-gia!" được lặp lại (19:3). Toàn thể hội thánh và mọi tạo vật đều quỳ xuống và thờ phượng Đức Chúa Trời là Đấng ngồi trên ngai vàng (c.4). Và họ nhắc lại lần thứ ba, 'Amen, Ha-lê-lu-gia!' (c.4).

Cuối cùng, cụm từ này được lặp lại lần thứ tư: "Rồi tôi nghe có tiếng như tiếng của một đoàn người đông đảo, như tiếng của nhiều dòng nước, như tiếng sấm lớn, nói rằng: Ha-lê-lu-gia!" (c.6, theo bản dịch MSG).

Sau đó, bữa tiệc bắt đầu:

"Chúng ta hãy vui mừng hớn hở, hãy tôn vinh Ngài, vì lễ cưới Chiên Con đã đến và Vợ Ngài đã chuẩn bị mình sẵn sàng. Nàng đã được ban cho áo bằng vải gai mịn sáng chói và tinh khiết để mặc vào!” (vải gai mịn là những việc công chính của các thánh đồ) (c.7-8, theo bản dịch MSG).

Một đám cưới ở trần gian là một lời thì thầm của phúc âm. Hôn nhân trần thế chỉ ra một điều thậm chí còn tuyệt vời và vĩnh cửu hơn - mối quan hệ của bạn với Chúa Giê-su Christ.

Đám cưới của Chiên Con là hôn nhân của Đấng Christ và hội thánh của Ngài (xem Ê-phê-sô 5:32; Khải huyền 21:2). Trái ngược với quần áo lòe loẹt của Ba-by-lôn phạm tội ngoại tình và lăng nhăng (18:16), Hội Thánh của Chúa chỉ mặc "vải lanh mịn, sáng sủa và sạch sẽ" (19:8). Bạn được mặc vào sự công chính của Đấng Christ và mọi hành động công chính (c.8b) đều được ghi nhớ, có giá trị và được tôn vinh.

Đây là bữa tiệc vĩ đại và đời đời của 'bữa tiệc cưới của Chiên Con' (c.9). Được 'mời' tham dự (c.9) là điều phước lành nhất trong mọi phước lành. Phần còn lại của Tân Ước cho chúng ta biết rằng bạn được mời, nhưng bạn phải chọn chấp nhận lời mời.

Không có gì đáng ngạc nhiên khi Giăng muốn quỳ nơi chân thiên sứ và thờ phượng. Nhưng bạn không được thờ phượng người lan truyền sứ điệp, mà chỉ thờ phượng người mà sứ điệp nói về: 'Hãy thờ phượng Đức Chúa Trời!' (c.10). Và bạn phải đi và nói với người khác: 'Vì lời chứng của Đức Chúa Giê-su là tinh thần của lời tiên tri.' (câu 10).

Cầu nguyện

Lạy Chúa, cảm ơn Chúa vì câu chuyện về thế giới này sẽ kết thúc bằng khúc ca 'Ha-lê-lu-gia!' – như lời ngợi khen, tạ ơn và thờ phượng Đức Chúa Trời. Cảm ơn Chúa vì chúng con có thể mong chờ đám cưới của Chiên Con. "Chúng ta hãy vui mừng hớn hở, hãy tôn vinh Ngài" (c.7).

Cựu Ước

Nê-hê-mi 7:4-8:18

7

4Thành thì rộng lớn nhưng cư dân trong thành ít ỏi và nhà cửa còn thưa thớt.

Danh sách những người hồi hương

5Đức Chúa Trời thúc giục lòng tôi triệu tập những người quý tộc, các quan chức và dân chúng đến ghi tên theo gia phả. Tôi đã tìm được một cuốn gia phả của những người đã hồi hương lần đầu tiên và trong đó tôi thấy có ghi rằng:

6Đây là những người từ nơi lưu đày hồi hương, tức là những người bị vua Nê-bu-cát-nết-sa bắt đi Ba-by-lôn, nay họ trở về Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, mỗi người về lại thành của mình. 7Họ trở về cùng với Xô-rô-ba-bên, Giê-sua, Nê-hê-mi, A-xa-ria, Ra-a-mia, Na-ha-ma-ni, Mạc-đô-chê, Binh-san, Mích-bê-rết, Biết-vai, Nê-hum và Ba-a-na.

Đây là số những người nam trong Y-sơ-ra-ên được kiểm tra: 8Con cháu Pha-rốt có hai nghìn một trăm bảy mươi hai người. 9Con cháu Sê-pha-tia có ba trăm bảy mươi hai người. 10Con cháu A-ra có sáu trăm năm mươi hai người. 11Con cháu Pha-hát Mô-áp, tức là con cháu của Giê-sua và Giô-áp, có hai nghìn tám trăm mười tám người. 12Con cháu Ê-lam có một nghìn hai trăm năm mươi bốn người. 13Con cháu Xát-tu có tám trăm bốn mươi lăm người. 14Con cháu Xác-cai có bảy trăm sáu mươi người. 15Con cháu Bin-nui có sáu trăm bốn mươi tám người. 16Con cháu Bê-bai có sáu trăm hai mươi tám người. 17Con cháu A-gát có hai nghìn ba trăm hai mươi hai người. 18Con cháu A-đô-ni-cam có sáu trăm sáu mươi bảy người. 19Con cháu Biết-vai có hai nghìn không trăm sáu mươi bảy người. 20Con cháu A-đin có sáu trăm năm mươi lăm người. 21Con cháu A-te thuộc dòng dõi Ê-xê-chia có chín mươi tám người. 22Con cháu Ha-sum có ba trăm hai mươi tám người. 23Con cháu Bết-sai có ba trăm hai mươi bốn người. 24Con cháu Ha-ríp có một trăm mười hai người. 25Con cháu Ga-ba-ôn có chín mươi lăm người. 26Những người quê ở Bết-lê-hem và Nê-tô-pha có một trăm tám mươi tám người 27Những người quê ở A-na-tốt có một trăm hai mươi tám người. 28Những người quê ở Bết A-ma-vết có bốn mươi hai người. 29Những người quê ở Ki-ri-át Giê-a-rim, người Kê-phi-ra, và người Bê-ê-rốt, có bảy trăm bốn mươi ba người. 30Những người quê ở Ra-ma và Ghê-ba, có sáu trăm hai mươi mốt người. 31Những người quê ở Mích-ma có một trăm hai mươi hai người. 32Những người quê ở Bê-tên và A-hi có một trăm hai mươi ba người. 33Những người quê ở Nê-bô khác có năm mươi hai người. 34Con cháu Ê-lam khác có một nghìn hai trăm năm mươi bốn người. 35Con cháu Ha-rim có ba trăm hai mươi người. 36Con cháu Giê-ri-cô có ba trăm bốn mươi lăm người. 37Con cháu Lót, Ha-đít và Ô-nô có bảy trăm hai mươi mốt người. 38Con cháu Sê-na có ba nghìn chín trăm ba mươi người.

39Những thầy tế lễ: Con cháu Giê-đa-gia thuộc dòng dõi Giê-sua có chín trăm bảy mươi ba người. 40Con cháu Y-mê có một nghìn không trăm năm mươi hai người. 41Con cháu Pha-su-rơ có một nghìn hai trăm bốn mươi bảy người. 42Con cháu Ha-rim có một nghìn không trăm mười bảy người.

43Những người Lê-vi: Con cháu Giê-sua và Cát-mi-ên, thuộc dòng dõi Hô-đê-va có bảy mươi bốn người.

44Các ca sĩ: Con cháu A-sáp có một trăm bốn mươi tám người.

45Những người gác cổng: Con cháu Sa-lum, con cháu A-te, con cháu Tanh-môn, con cháu A-cúp, con cháu Ha-ti-ta và con cháu Sô-bai, có một trăm ba mươi tám người.

46Những người phục vụ đền thờ: con cháu Xi-ha, con cháu Ha-su-pha, con cháu Ta-ba-ốt, 47con cháu Kê-rốt, con cháu Si-a, con cháu Pha-đôn, 48con cháu Lê-ba-na, con cháu Ha-ga-ba, con cháu Sanh-mai, 49con cháu Ha-nan, con cháu Ghi-đên, con cháu Ga-ha, 50con cháu Rê-a-gia, con cháu Rê-xin, con cháu Nê-cô-đa, 51con cháu Ga-xam, con cháu U-xa, con cháu Pha-sê-a 52con cháu Bê-sai, con cháu Mê-u-nim, con cháu Nê-phu-sê-sim, 53con cháu Bác-búc, con cháu Ha-cu-pha, con cháu Ha-rua, 54con cháu Bát-lít, con cháu Mê-hi-đa, con cháu Hạt-sa, 55con cháu Bạt-cô, con cháu Si-sê-ra, con cháu Tha-mác, 56con cháu Nê-xia, con cháu Ha-ti-pha.

57Dòng dõi của các đầy tớ Sa-lô-môn: Con cháu Sô-tai, con cháu Sô-phê-rết, con cháu Phê-ri-đa 58con cháu Gia-a-la, con cháu Đạt-côn, con cháu Ghi-đên, 59con cháu Sê-pha-tia, con cháu Hát-tinh, con cháu Phô-kê-rết Hát-xê-ba-im, con cháu A-môn.

60Tổng số người phục vụ đền thờ và dòng dõi của các đầy tớ Sa-lô-môn là ba trăm chín mươi hai người.

61Sau đây là những người trở về từ Tên Mê-la, Tên Hạt-sa, Kê-rúp, A-đôn và Y-mê, nhưng họ không thể tìm ra tổ tiên hoặc nguồn gốc của họ thuộc về Y-sơ-ra-ên hay không:

62Con cháu Đê-la-gia, con cháu Tô-bi-gia và con cháu Nê-cô-đa có sáu trăm bốn mươi hai người.

63Còn những thầy tế lễ: Con cháu Ha-ba-gia, con cháu Ha-cốt, con cháu Bạt-xi-lai (là người lấy vợ trong số con gái của Bạt-xi-lai, người Ga-la-át nên được gọi bằng tên ấy).

64Những người nầy tìm kiếm tên mình trong gia phả nhưng không thấy nên bị loại ra khỏi chức tế lễ vì bị coi là ô uế. 65Quan tổng đốc cấm họ ăn những vật chí thánh cho đến khi có một thầy tế lễ dùng U-rim và Thu-mim để cầu hỏi Đức Chúa Trời.

66Cả hội chúng tổng cộng là bốn mươi hai nghìn ba trăm sáu mươi người, 67không kể bảy nghìn ba trăm ba mươi bảy tôi trai tớ gái của họ và hai trăm bốn mươi lăm ca sĩ, cả nam lẫn nữ. 68Họ có bảy trăm ba mươi sáu con ngựa, hai trăm bốn mươi lăm con la, 69bốn trăm ba mươi lăm con lạc đà và sáu nghìn bảy trăm hai mươi con lừa.

70Một vài trưởng tộc đã dâng hiến vào quỹ công trình. Quan tổng đốc dâng cho quỹ công trình khoảng tám ký rưỡi vàng, năm mươi chậu và năm trăm ba mươi bộ áo cho thầy tế lễ. 71Có mấy trưởng tộc dâng vào quỹ công trình khoảng một trăm bảy chục ký vàng và một nghìn hai trăm ký bạc. 72Dân chúng dâng phần còn lại, được khoảng một trăm bảy chục ký vàng, khoảng một nghìn một trăm ký bạc và sáu mươi bảy bộ áo thầy tế lễ.

73Như vậy, những thầy tế lễ, người Lê-vi, những người gác cổng, các ca sĩ, một số người khác và những người phục vụ đền thờ cùng cả Y-sơ-ra-ên đều ở trong thành của mình. Đến tháng bảy thì dân Y-sơ-ra-ên đều ở trong các thành của mình.

8

E-xơ-ra đọc luật pháp trước công chúng 1Bấy giờ tất cả dân chúng đều họp lại như một người tại quảng trường trước cổng Nước. Họ xin thầy thông giáo E-xơ-ra đem cuộn sách luật pháp của Môi-se ra; đó là luật pháp mà Đức Giê-hô-va đã truyền dạy cho Y-sơ-ra-ên. 2Vậy, vào ngày mồng một tháng bảy, thầy tế lễ E-xơ-ra đem cuộn sách luật pháp đến trước mặt hội chúng cả nam lẫn nữ, cùng tất cả những người có thể nghe và hiểu được. 3Ông đứng tại quảng trường trước cổng Nước đọc trong cuộn sách ấy từ rạng đông cho đến trưa, trước mặt hội chúng cả nam lẫn nữ cùng những người có thể hiểu được. Tất cả dân chúng lắng tai nghe đọc sách luật pháp.

4Thầy thông giáo E-xơ-ra đứng trên bục gỗ mà người ta làm nhân dịp ấy; Ma-ti-thia, Sê-ma, A-na-gia, U-ri, Hinh-kia và Ma-a-xê-gia đứng gần ông, phía bên phải; còn bên trái ông thì có Phê-đa-gia, Mi-sa-ên, Manh-ki-gia, Ha-sum, Hách-ba-đa-na, Xa-cha-ri và Mê-su-lam

5E-xơ-ra mở sách ra trước mặt cả dân chúng vì ông đứng cao hơn họ; và khi ông mở sách ra thì dân chúng đều đứng dậy. 6E-xơ-ra chúc tụng Giê-hô-va Đức Chúa Trời cao cả, và tất cả dân chúng giơ tay lên mà đáp lại rằng: “A-men, A-men,” rồi họ cúi đầu, sấp mặt xuống đất mà thờ phượng Đức Giê-hô-va.

7Giê-sua, Ba-ni, Sê-rê-bia, Gia-min, A-cúp, Sa-bê-thai, Hô-đi-gia, Ma-a-xê-gia, Kê-li-ta, A-xa-ria, Giô-xa-bát, Ha-nan, Phê-la-gia và người Lê-vi giải thích cho dân chúng hiểu luật pháp, còn dân chúng vẫn đứng tại chỗ. 8Họ đọc rõ ràng trong sách luật pháp của Đức Chúa Trời rồi giải nghĩa cho người ta hiểu lời họ đọc.

9Nê-hê-mi, quan tổng đốc, E-xơ-ra thầy tế lễ cũng là thầy thông giáo, cùng người Lê-vi dạy dỗ dân chúng, nói với mọi người Y-sơ-ra-ên rằng: “Ngày nay là thánh cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em. Đừng để tang hay khóc lóc.” Vì cả dân chúng đều khóc khi nghe đọc những lời trong luật pháp.

10Nê-hê-mi nói với họ: “Hãy đi ăn đồ ăn béo, uống thức uống ngọt và hãy gửi phần ăn cho ai không sắm sửa gì hết vì hôm nay là ngày biệt ra thánh cho Chúa chúng ta. Đừng buồn thảm vì sự vui vẻ về Đức Giê-hô-va là sức mạnh của anh em.”

11Vậy người Lê-vi trấn an dân chúng và nói: “Hãy im lặng vì ngày nay là thánh, đừng buồn thảm nữa!” 12Toàn thể dân chúng đi ra ăn uống và gửi phần ăn cho người không có. Họ liên hoan trọng thể vì họ hiểu được các lời người ta đã truyền dạy cho mình.

Giữ lễ Lều Tạm

13Qua ngày mồng hai, các trưởng tộc trong dân chúng, những thầy tế lễ và người Lê-vi đều nhóm lại với thầy thông giáo E-xơ-ra để lắng nghe các lời của luật pháp. 14Họ thấy có chép trong luật pháp mà Đức Giê-hô-va phán qua Môi-se bảo dân Y-sơ-ra-ên phải ở trong các lều tạm suốt kỳ lễ vào tháng bảy 15và họ phải rao truyền trong các thành cũng như tại Giê-ru-sa-lem rằng: “Hãy lên núi tìm những nhánh ô-liu và cây ô-liu rừng, nhánh cây sim, lá kè và những nhánh cây rậm lá để làm những lều tạm” như đã chép.

16Vậy dân chúng đi ra đem các lá ấy về và mỗi người làm lều tạm trên mái nhà mình, ngoài sân, trong hành lang của đền Đức Chúa Trời, nơi quảng trường trước cổng Nước và quảng trường trước cổng Ép-ra-im. 17Cả hội chúng của những người bị lưu đày trở về làm những lều tạm và ở trong đó. Từ đời Giô-suê, con trai của Nun, cho đến ngày ấy dân Y-sơ-ra-ên chưa bao giờ làm như vậy. Họ tràn ngập niềm vui.

18Mỗi ngày, từ ngày đầu cho đến ngày cuối, người ta đọc trong sách luật pháp của Đức Chúa Trời. Họ ăn mừng lễ hội trong bảy ngày, và ngày thứ tám có một lễ trọng thể theo luật định.

Bình luận

Những người ca ngợi Đức Chúa Trời

Như chúng ta đã thấy, giống như Đức Chúa Trời kêu gọi Nê-hê-mi và dân của Ngài xây dựng lại các bức tường thành Giê-ru-sa-lem, Ngài kêu gọi chúng ta xây dựng và tái thiết lập hội thánh. Một trong những cách Đức Chúa Trời hướng dẫn bạn là Ngài đặt những thúc giục lòng bạn. Nê-hê-mi nói, 'Đức Chúa Trời thúc giục lòng tôi triệu tập những người quý tộc, các quan chức và dân chúng đến ghi tên theo gia phả' (7: 5, theo bản dịch MSG). Nê-hê-mi liệt kê những người lưu đày đã trở về (c.6-73).

Khi việc xây dựng lại các bức tường thành Giê-ru-sa-lem hoàn tất, mọi người tụ tập lại để nghe E-xơ-ra giải thích về Kinh thánh. "Tất cả dân chúng lắng tai nghe đọc sách luật pháp. – Sách Khải Huyền" (8:3, theo bản dịch MSG). "Khi E-xơ-ra mở sách ra, mọi người đều đứng lên" (8:5, theo bản dịch MSG). Họ đứng dậy vì tôn trọng lời của Đức Chúa Trời.

Sau đó, E-xơ-ra ca ngợi Chúa, là Chúa vĩ đại và tất cả mọi người trả lời "A-men! A-men" với hai tay giơ cao. Và rồi họ quỳ xuống thờ phượng Đức Chúa Trời, *sấp mặt xuống đất *' (c.6, theo bản dịch MSG).

Cơ thể chúng ta thể hiện tấm lòng của chúng ta. Đó là lý do tại sao, khi tôi ở một mình, tôi thích quỳ xuống khi đọc Kinh Thánh như một dấu hiệu của sự tôn kính và tôn trọng Chúa. Tôi đã đến để lắng nghe Ngài và thờ phượng Ngài.

Giơ tay thờ phượng là tập tục phổ biến của cả người Do Thái và các Cơ Đốc nhân đầu tiên ('giơ tay lên cao', câu 6). "Cử chỉ cầu nguyện lâu đời nhất trong Cơ Đốc giáo là cầu nguyện với cánh tay dang rộng", Đức Giáo Hoàng Benedict viết. Cử chỉ này là 'hình thức thờ phượng căn bản'. Nó diễn tả việc mở lòng mình ra cho Thiên Chúa và đồng thời mở lòng mình ra trong tình yêu với người khác.

Tất cả các sự nhóm họp của chúng ta để ca ngợi và thờ phượng Đức Chúa Trời là một sự mong chờ và sự góp phần vào sự thờ phượng vĩ đại của thiên đàng - điệp khúc Ha-lê-lu-gia vĩnh cửu. Trong đoạn Kinh Thánh ở Nê-hê-mi, chúng ta thấy một ví dụ về điều này. Nó lặp lại và dự đoán sự thờ phượng vĩ đại của Khải huyền 19.

Thống đốc Nê-hê-mi, thầy tế lễ E-xơ-ra, các thầy thông giáo và người Lê-vi hướng dẫn dân chúng. Họ khóc khi lắng nghe những lời của Luật pháp (c.9).

Nhưng Nê-hê-mi nói với họ rằng đó là thời gian để vui vẻ và ăn mừng: 'Hãy đi ăn đồ ăn béo, uống thức uống ngọt ... Đừng buồn thảm vì sự vui vẻ về Đức Giê-hô-va là sức mạnh của anh em.' (c.10). Họ đã có một khoảng thời gian ăn mừng với nhiều niềm vui lớn lao (c.12).

Như Joyce Meyer viết, "Mỗi ngày mà Chúa ban cho chúng ta là thánh và là một món quà quý giá từ Ngài. Chúng ta nên tận hưởng nó một cách trọn vẹn. Niềm vui là nguồng sức mạnh. Không có gì giải phóng niềm vui siêu nhiên trong cuộc sống của chúng ta hơn là một phước lành cho người khác."

Cầu nguyện

Lạy Chúa, con ngợi khen Chúa vì sự xuất hiện của Đấng Christ vào ngày Giáng sinh đầu tiên. Cảm ơn Chúa vì giờ đây chúng con mong đợi sự tái lâm của Ngài, tiệc cưới của Chiên Con sẽ diễn ra, khi đó sự ngợi khen và thờ phượng vinh diệu của thiên đàng sẽ tiếp tục mãi mãi. Ha-lê-lu-gia!

Pippa chia sẻ

Nê Hê Mi 8:10–18

Ở đây chúng ta thấy, thật tốt khi 'ăn mừng' và thưởng thức 'đồ ăn ngon và thức uống ngọt', nhưng nếu nó chỉ dành cho tiêu dùng của riêng chúng ta thì có vẻ hơi ích kỷ và nông cạn. Những người này kết hợp nó với việc gửi "một số người đến với những người không có gì cả" và đọc Lời Chúa. Điều đó đã mang lại cho việc ăn mừng một chiều sâu khác biệt.

reader

App

Tải xuống ứng dụng Kinh Thánh Trong Một Năm dành cho thiết bị iOS hoặc Android và đọc theo mỗi ngày.

reader

Email

Đăng ký ngay bây giờ để nhận Kinh thánh trong một năm trong hộp thư đến của bạn mỗi sáng. Bạn sẽ nhận được một email mỗi ngày.

reader

Website

Bắt đầu đọc sự tận tâm của ngày hôm nay ngay tại đây trên trang web BiOY.

Read now
reader

Book

Kinh thánh trong một năm bình luận có sẵn như là một cuốn sách.

Tham khảo

Joyce Meyer, Everyday Life Bible (Faithwords, 2018), p.741.

Unless otherwise stated, Scripture quotations taken from the Holy Bible, New International Version Anglicised, Copyright © 1979, 1984, 2011 Biblica, formerly International Bible Society. Used by permission of Hodder & Stoughton Publishers, an Hachette UK company. All rights reserved. ‘NIV’ is a registered trademark of Biblica. UK trademark number 1448790.

Scripture marked (MSG) taken from The Message. Copyright © 1993, 1994, 1995, 1996, 2000, 2001, 2002. Used by permission of NavPress Publishing Group.

Kinh Thánh trong một năm

  • Introduction
  • Wisdom Bible
  • Wisdom Commentary
  • New Testament Bible
  • New Testament Commentary
  • Old Testament Bible
  • Old Testament Commentary
  • Pippa Adds

This website stores data such as cookies to enable necessary site functionality and analytics. Find out more