Ngày 43

Ngài đã cứu bạn

Khôn ngoan Thi thiên 21:1-7
Tân ước Ma-thi-ơ 27:11-44
Cựu Ước Xuất Ê-díp-tô Ký 11:1-12:51

Giới thiệu

Vào ngày 13 tháng 1 năm 1982, Chuyến bay mang số hiệu 90 của Air Florida cất cánh từ Washington, DC đã đâm xuống sông Potomac. Đó là mùa đông và dòng sông thì phủ đầy băng. Vụ tai nạn xảy ra gần một cây cầu bắc qua sông. Máy quay TV có thể nhìn thấy mọi thứ. Hàng triệu khán giả, ngồi trong phòng khách của họ, theo dõi chiếc trực thăng trên bầu trời thả dây cứu sinh xuống một người đàn ông đang vật lộn dưới nước. Anh ta nắm lấy sợi dây, bơi đến một người sống sót khác ngay bên cạnh anh ta, kẹp người phụ nữ vào và họ kéo cô ta lên đến nơi an toàn. Chiếc trực thăng lại hạ dây xuống, và một lần nữa người đàn ông lại làm điều tương tự. Anh ta bơi đến một người khác và cứu họ. Anh ấy đã cứu những người khác và trước khi hoàn thành điều đó, do quá kiệt sức, anh ấy đã chết đuối.

Tại sao người đàn ông này không tự cứu mình? Câu trả lời là anh ấy đặt bản thân sang một bên để cứu những người khác. Theo một cách thậm chí còn tuyệt vời hơn, Chúa Giê-su đã không tự cứu mình vì Ngài từ bỏ chính Ngài để cứu bạn và tôi.

Hôm nay, hãy tập trung suy nghĩ của bạn vào Chúa Giê-su, Đấng Cứu Chuộc của thế gian và suy ngẫm về cách ngài đã cứu bạn.

Khôn ngoan

Thi thiên 21:1-7

Ca ngợi sự giải cứu của Chúa

Thi Thiên của Đa-vít, sáng tác cho nhạc trưởng

  1Lạy Đức Giê-hô-va, vua vui mừng nhờ năng lực Ngài,
   Vì sự giải cứu của Ngài, người hoan hỉ biết bao!
  2Chúa đã ban cho người điều lòng người ao ước,
   Cũng không từ chối điều môi người cầu xin. (Sê-la)
  3Vì Chúa lấy phước lành mà đón rước người;
   Đội trên đầu người mão triều bằng vàng ròng.
  4Người cầu xin Chúa ban sự sống, và Chúa đã ban cho người,
   Đến nỗi ban cho người ngày tháng dài lâu vô cùng.
  5Nhờ sự giải cứu của Chúa, người được vinh hiển lớn;
   Chúa mặc cho người sự tôn trọng và oai nghi.
  6Chúa ban cho người phước lành mãi mãi;
   Sự hiện diện của Chúa khiến người hớn hở, mừng vui.
  7Vì vua tin cậy Đức Giê-hô-va,
   Nhờ sự nhân từ của Đấng Chí Cao, Người sẽ không rúng động.

Bình luận

Được cứu bởi Chúa

Bạn không thể tự cứu mình. Chỉ có Chúa mới có thể cứu bạn. Ngài đã cứu bạn vì 'tình yêu không bao giờ cạn' của Ngài. Vì vậy, giống như Đa-vít, hãy đặt niềm tin của bạn vào Ngài ngay hôm nay (c.7).

Thi thiên này bắt đầu với việc Đa-vít ngợi khen Đức Chúa Trời về sự cứu rỗi của Ngài:

‘Lạy Đức Giê-hô-va, vua vui mừng nhờ năng lực Ngài,
sự giải cứu của Ngài, người hoan hỉ biết bao!' (c.1).

Trong phân đoạn Kinh Thánh này, chúng ta thấy một số phước lành mà sự cứu rỗi mang đến:

1. Lời cầu nguyện được nhậm

‘Chúa đã ban cho người điều lòng người ao ước,
Cũng không từ chối điều môi người cầu xin’ (c.2).

2. Phước lành vô hạn

‘Vì Chúa lấy phước lành mà đón rước người;
Đội trên đầu người mão triều bằng vàng ròng…
Chúa ban cho người phước lành mãi mãi’ (c.3,6a).

3. Sự sống đời đời

‘Người cầu xin Chúa ban sự sống, và Chúa đã ban cho người,
Đến nỗi ban cho người ngày tháng dài lâu vô cùng' (c.4).

4. Sống đắc thắng

‘Nhờ sự giải cứu của Chúa, người được vinh hiển lớn;
Chúa mặc cho người sự tôn trọng và oai nghi’ (c.5).

5. Sự vui mừng và niềm hân hoan

‘Sự hiện diện của Chúa khiến người hớn hở, mừng vui’ (c.6b).

Cầu nguyện

Cảm ơn Chúa vì Ngài đã cứu con. Cảm ơn Chúa vì tình yêu không bao giờ cạn và vô số phước lành từ nơi Ngài. Hôm nay, con trông cậy Ngài.

Tân ước

Ma-thi-ơ 27:11-44

Đức Chúa Jêsus trước mặt Phi-lát

(Mác 15:2-5; Lu-ca 23:3-5; Giăng 18:33-38)

11Lúc ấy, Đức Chúa Jêsus đứng trước mặt tổng đốc; viên tổng đốc hỏi: “Ngươi có phải là vua dân Do Thái không?” Đức Chúa Jêsus đáp: “Chính ngươi đã nói thế.” 12Nhưng khi các thầy tế lễ cả và các trưởng lão tố cáo Ngài, Ngài không trả lời. 13Phi-lát hỏi Ngài: “Ngươi không nghe biết bao điều họ làm chứng chống lại ngươi sao?” 14Nhưng Đức Chúa Jêsus không đáp một lời nào khiến viên tổng đốc rất đỗi kinh ngạc.
15Theo thông lệ, cứ vào dịp lễ, tổng đốc ân xá cho một tù nhân theo ý dân muốn. 16Lúc ấy, họ đang giữ một tù nhân khét tiếng tên là Ba-ra-ba. 17Vì vậy, khi họ tụ họp lại, thì Phi-lát hỏi: “Các ngươi muốn ta tha người nào, Ba-ra-ba hay Jêsus gọi là Christ?” 18Vì ông biết, bởi lòng đố kỵ nên họ đã nộp Ngài. 19Ngoài ra, trong lúc ông ngồi xử án, vợ ông cho người đến thưa rằng: “Xin đừng đụng đến người công chính ấy, chính vì người mà hôm nay tôi bị dằn vặt nhiều trong chiêm bao.” 20Nhưng các thầy tế lễ cả và các trưởng lão xúi giục dân chúng xin tha Ba-ra-ba và giết Đức Chúa Jêsus. 21Tổng đốc lại hỏi: “Trong hai người nầy các ngươi muốn ta tha ai?” Họ trả lời: “Ba-ra-ba.” 22Phi-lát nói: “Vậy ta phải xử thế nào với Jêsus gọi là Christ?” Họ đồng loạt trả lời: “Đóng đinh nó trên cây thập tự!” 23Tổng đốc hỏi: “Người nầy đã làm điều ác gì?” Nhưng họ lại la lớn hơn: “Đóng đinh nó trên cây thập tự!”
24Vì vậy, khi Phi-lát thấy mình chẳng làm được gì, lại còn có thể nẩy sinh bạo động, nên lấy nước và rửa tay trước dân chúng, rồi nói: “Ta vô tội về huyết của người nầy; đó là việc của các ngươi.” 25Cả dân chúng đều trả lời: “Xin huyết của nó đổ trên chúng tôi và con cháu chúng tôi!” 26Vậy Phi-lát tha Ba-ra-ba cho họ, và đánh đòn Đức Chúa Jêsus, rồi giao Ngài để đóng đinh vào thập tự giá.
27Sau đó, lính của tổng đốc đem Đức Chúa Jêsus vào tư dinh tổng đốc và tập trung cả đội binh chung quanh Ngài. 28Chúng lột áo Ngài ra và khoác cho Ngài một chiếc áo điều, 29đan một chiếc mão gai và đội trên đầu Ngài, rồi đặt một cây sậy trong tay phải Ngài. Chúng quỳ trước mặt Ngài, nhạo báng rằng: “Lạy Vua dân Do Thái.” 30Chúng khạc nhổ trên Ngài, lấy cây sậy đánh vào đầu Ngài. 31Sau khi đã chế nhạo Ngài, chúng lột áo điều ra, mặc áo của Ngài vào, rồi giải đi để đóng đinh vào thập tự giá.

Đức Chúa Jêsus bị đóng đinh

(Mác 15:21-32; Lu-ca 23:26-43; Giăng 19:17-27)

32Lúc đi ra, chúng gặp một người Sy-ren tên là Si-môn, và bắt người nầy vác thập tự giá của Đức Chúa Jêsus. 33Khi đến một nơi gọi là Gô-gô-tha, có nghĩa là Đồi Sọ, 34chúng cho Ngài uống rượu hòa với mật đắng; nhưng khi đã nếm, thì Ngài không uống. 35Sau khi đã đóng đinh Ngài vào thập tự giá, chúng bắt thăm chia nhau y phục của Ngài. 36Rồi chúng ngồi đó canh giữ Ngài. 37Phía trên đầu Ngài có để một cáo trạng ghi rằng: “ĐÂY LÀ JÊSUS, VUA DÂN DO THÁI.” 38Lúc ấy, có hai tên cướp cùng bị đóng đinh với Ngài: một tên ở bên phải, một tên bên trái. 39Những kẻ đi qua đều chế giễu, lắc đầu 40và nói: “Ngươi là người có thể phá đền thờ và xây lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi! Nếu ngươi là Con Đức Chúa Trời, hãy xuống khỏi thập tự giá đi!” 41Các thầy tế lễ cả, các thầy thông giáo và các trưởng lão cũng chế nhạo Ngài rằng: 42“Nó đã cứu người khác mà không thể tự cứu chính mình. Nó là vua Y-sơ-ra-ên mà! Bây giờ hãy để nó xuống khỏi thập tự giá đi thì chúng ta sẽ tin ngay. 43Nó tin cậy Đức Chúa Trời. Nếu Ngài yêu thương nó thì bây giờ hãy để Ngài giải cứu nó; vì nó nói: ‘Ta là Con Đức Chúa Trời.’ ” 44Hai tên cướp cùng bị đóng đinh với Ngài cũng mắng nhiếc Ngài như vậy.

Bình luận

Được cứu bởi sự hy sinh

Dân Chúa trong Cựu Ước mong đợi một Đấng Mê-si-a (Đấng Christ). Đấng Mê-si-a này sẽ ngự trị ‘trên ngôi Đa-vít và trên vương quốc Ngài, để lập vững và duy trì vương quốc ấy trong công lý và sự công chính’ (Ê-sai 9:6).

Tuy nhiên, trong Cựu Ước còn có một dòng trông đợi khác về đấng cứu thế. Điều này được thấy trong hình ảnh 'người đầy tớ khốn khổ' của Ê-sai 40–55, người 'bị đem đi làm thịt, như chiên câm lặng trước mặt kẻ hớt lông' (Ê-sai 53:7), người sẽ gánh lấy tội lỗi của thế gian và chết thay cho kẻ có tội (c.5–6).

Không ai ngờ vị vua Mê-si-angười đầy tớ gian khổ lại là cùng một người. Tuy nhiên, theo một cách ngoạn mục, Chúa Giê-su đã kết hợp những chủ đề về Đấng Mê-si-a vĩ đại này lại với nhau. Chúa Giê-su vừa là Vua, vừa là người người đầy tớ đau khổ.

1. Vua Mê-si-a

Khi Phi-lát hỏi Chúa Giê-su: 'Ngươi có phải là vua dân Do Thái không?' (Ma-thi-ơ 27:11a), Ngài đáp: 'Chính ngươi đã nói thế' (c.11b). Quân lính chế giễu Chúa Giê-su, cải trang Ngài thành một vị vua và giả vờ chào và quỳ xuống trước ngài, tung hô ngài là ‘Vua dân Do Thái!’ (c.29b).

‘Họ treo trên đầu Ngài tấm bảng ghi tội trạng: “Đây là Giê-xu, Vua dân Do-thái”’ (c.37, BDY). Các thầy tế lễ cả, các thầy thông giáo và các trưởng lão cũng nhạo báng Ngài rằng: ‘Nó là vua Y-sơ-ra-ên’ (c.42).

Ma-thi-ơ nói rõ rằng tội duy nhất mà Chúa Giê-su 'phạm' là trở thành 'Vua' (c.11), Đấng 'Christ' (Đấng Mê-si-a) (c.22) và 'Con Đức Chúa Trời' (c.43).

2. Người đầy tớ đau khổ

Chúa Giê-su cũng làm ứng nghiệm những lời tiên tri này. ‘Người bị ngược đãi và khốn khổ, nhưng không hề mở miệng. Như chiên con bị đem đi làm thịt, như chiên câm lặng trước mặt kẻ hớt lông, người không hề mở miệng’ (Ê-sai 53:7).

Khi bị các thầy tế lễ cả và trưởng lão tố cáo, Người 'không trả lời' (Ma-thi-ơ 27:12). Khi Phi-lát hỏi Ngài: 'Ngươi không nghe biết bao điều họ làm chứng chống lại ngươi sao?' (c.13), Chúa Giê-su 'không đáp một lời nào khiến viên tổng đốc rất đỗi kinh ngạc' (c.14).

Chúa Giê-su, người đầy tớ đau khổ vô tội, đã chết thay cho bạn để bạn được tự do. Theo nghĩa này, Ba-ra-ba đại diện cho bạn và tôi, những kẻ có tội. Ông ta là ‘một tù nhân khét tiếng’ (c.16). Đó là câu hỏi về việc chọn ‘Ba-ra-ba hay Jêsus gọi là Christ?’ (c.17). Dân chúng đòi tha Ba-ra-ba và giết Chúa Giê-su (c.20). Ba-ra-ba được trả tự do (c.26). Lời tiên tri của Ê-sai về người đầy tớ đau khổ đã được ứng nghiệm: ‘Nhưng Người đã vì tội lỗi của chúng ta mà bị vết, vì gian ác của chúng ta mà bị thương’ (Ê-sai 53:5).

Mặc dù Chúa Giê-su là vị vua được chờ đợi từ lâu, nhưng Ngài không phải là vị vua mà dân chúng mong đợi – chẳng hạn như một người sẽ đi từ chiến thắng vĩ đại này đến chiến thắng vĩ đại khác. Thay vào đó, Chúa Giê-su phải đương đầu với sự đố kỵ, vu cáo, chỉ trích vô lý, bất công, hiểu lầm, thẩm quyền yếu kém, sự nhạo báng và lăng mạ của những người lãnh đạo tôn giáo và thế gian – thậm chí cả những tên trộm cướp. Sự đau khổ đến từ mọi phía.

Phi-lát biết Chúa Giê-su vô tội. Ông nhận ra rằng 'bởi lòng đố kỵ nên họ đã nộp Ngài' (Ma-thi-ơ 27:18). (Ghen tị thường là tội lỗi của tôn giáo. Chúng ta có khuynh hướng ghen tị với những người mà dường như Đức Chúa Trời đang sử dụng họ nhiều hơn chúng ta.) Phi-lát biết rằng Chúa Giê-su vô tội cũng vì một lý do khác. Vợ ông đã được cảnh báo trong một giấc mơ và xác nhận rằng Chúa Giê-su là một 'người công chính' (c.19). Tuy nhiên, ông dại dột phớt lờ lời khuyên của bà.

Trớ trêu thay, người đàn ông được ghi nhớ trong suốt lịch sử với tư cách là người chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giê-su ('bị đóng đinh dưới thời Bôn-xơ Phi-lát' – được truyền tụng trong tín điều hàng trăm năm trên khắp thế giới) đã cố gắng trốn tránh trách nhiệm bằng cách đổ lỗi cho người khác: 'Ta vô tội... đó là việc của các ngươi' (c.24).

Huyết của Chúa Giê-su đã đổ ra khi Ngài bị đánh đòn và bị nộp để đóng đinh (c.24–26b). Một lần nữa, trớ trêu thay những người đi qua Ngài đã nói: ‘Nếu ngươi là Con Đức Chúa Trời, hãy xuống khỏi thập tự giá đi!’ (c.40b), nhưng Chúa Giê-su đã chết với tư cách là Chiên Con của Đức Chúa Trời, Đấng đến để cất tội lỗi của thế gian. Những người đứng xem không hiểu rằng sự hy sinh của Chúa Giê-su là tự nguyện. Họ nói: ‘Nó đã cứu người khác mà không thể tự cứu chính mình’ (c.42a).

Chúa đã cứu bạn và tôi vì Ngài sẵn sàng không tự cứu chính mình.

Cầu nguyện

Chúa ơi, cảm ơn vì Ngài đã trải qua tất cả những điều này vì con. Cảm ơn Ngài đã chọn không tự cứu chính mình, mà đã cứu con.

Cựu Ước

Xuất Ê-díp-tô Ký 11:1-12:51

Môi-se báo trước tai vạ thứ mười

11 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Ta sẽ giáng cho Pha-ra-ôn và Ai Cập một tai vạ nữa. Sau đó, vua ấy sẽ để cho các con ra đi. Không những vua ấy để cho các con ra đi mà còn đuổi sạch các con khỏi đây nữa. 2Vậy hãy dặn bảo dân chúng rằng mỗi người, cả nam lẫn nữ, phải xin người láng giềng mình những món đồ bằng bạc và vàng.” 3Đức Giê-hô-va làm cho dân chúng được ơn dưới mắt người Ai Cập. Đặc biệt, dưới mắt quần thần của Pha-ra-ôn cũng như dưới mắt dân Ai Cập, Môi-se là một nhân vật rất quan trọng.
4Môi-se nói: “Đức Giê-hô-va phán: ‘Khoảng nửa đêm Ta sẽ tuần hành khắp Ai Cập. 5Tất cả các con trưởng nam trong xứ Ai Cập sẽ chết, từ thái tử của Pha-ra-ôn đang trị vì cho đến con cả của người hầu gái đang xay cối, và cả đến con đầu lòng của súc vật nữa.’ 6Khắp Ai Cập sẽ có tiếng kêu khóc inh ỏi như chưa từng có và cũng sẽ chẳng bao giờ có như vậy. 7Trái lại, trong dân Y-sơ-ra-ên, ngay đến chó cũng sẽ chẳng sủa người hoặc súc vật, để các người biết rằng Đức Giê-hô-va phân biệt dân Y-sơ-ra-ên với dân Ai Cập như thế nào. 8Bấy giờ, quần thần của bệ hạ sẽ xuống gặp tôi, cúi mình trước mặt tôi và nói: ‘Ông và cả dân chúng theo ông hãy đi đi!’ Sau đó tôi sẽ ra đi.” Nói xong, Môi-se rời Pha-ra-ôn trong cơn nóng giận.
9Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Pha-ra-ôn không chịu nghe con là để Ta gia tăng các dấu lạ trong xứ Ai Cập.” 10Môi-se và A-rôn thực hiện các dấu lạ đó trước mặt Pha-ra-ôn; nhưng Đức Giê-hô-va làm cho Pha-ra-ôn cứng lòng, nên vua ấy không chịu để cho dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ mình.

Thiết lập lễ Vượt Qua

12 Tại Ai Cập, Đức Giê-hô-va phán với Môi-se và A-rôn rằng: 2“Tháng nầy sẽ là tháng thứ nhất cho các con, tức là tháng giêng trong năm. 3Hãy nói với toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên rằng vào ngày mùng mười tháng nầy, mỗi gia trưởng phải bắt một con chiên con, mỗi nhà một con. 4Nếu nhà nào ít người quá, không ăn hết một con, thì tùy theo số người mà chung với người hàng xóm gần mình nhất; và tùy theo sức ăn của mỗi người mà tính số chiên con. 5Hãy bắt trong bầy chiên hoặc trong bầy dê của các con, một chiên con đực hay là dê con đực một năm tuổi, không tì vết; 6giữ đó cho đến ngày mười bốn tháng nầy; đó là ngày cả hội chúng Y-sơ-ra-ên sẽ giết con vật vào lúc chiều tối. 7Họ sẽ lấy máu bôi lên hai thanh dọc và thanh ngang cửa ra vào của nhà nào ăn thịt chiên con đó. 8Đêm ấy họ sẽ ăn thịt quay trên lửa với bánh không men và rau đắng. 9Các con chớ ăn thịt chưa chín hay là thịt luộc mà phải quay trên lửa cả đầu, giò, và bộ lòng. 10Đừng để vật gì thừa đến sáng mai; nếu còn lại thứ gì, hãy thiêu đi. 11Các con phải ăn bữa ấy theo cách nầy: Lưng thắt lại, chân mang giày, tay cầm gậy, ăn hối hả. Đó là lễ Vượt Qua của Đức Giê-hô-va.  12Đêm ấy, Ta sẽ đi khắp đất Ai Cập, hành hại tất cả các con đầu lòng của Ai Cập, cả người lẫn súc vật. Ta sẽ phán xét tất cả các thần của Ai Cập vì Ta là Đức Giê-hô-va. 13Máu bôi trên nhà các con đang ở sẽ là dấu hiệu cho các con. Khi Ta hành hại Ai Cập, thấy máu đó thì Ta sẽ lướt qua và sẽ không có tai nạn nào giáng xuống tiêu diệt các con.
14Ngày ấy sẽ là một kỷ niệm cho các con. Qua mọi thế hệ các con hãy giữ nó như một ngày lễ cho Đức Giê-hô-va, tức là một luật phải tuân giữ đời đời. 15Trong bảy ngày các con phải ăn bánh không men. Ngay trong ngày thứ nhất, các con phải loại bỏ men khỏi nhà mình; vì nếu ai ăn bánh có men từ ngày thứ nhất đến ngày thứ bảy thì sẽ bị loại trừ khỏi Y-sơ-ra-ên. 16Ngày thứ nhất, các con sẽ có cuộc nhóm họp thánh; đến ngày thứ bảy các con cũng sẽ có cuộc nhóm họp thánh nữa. Trong những ngày ấy, các con không nên làm việc gì cả, chỉ lo chuẩn bị thức ăn cần thiết cho mỗi người mà thôi. 17Vậy các con hãy giữ lễ Bánh Không Men vì trong chính ngày đó Ta đã đem đạo quân các con ra khỏi Ai Cập. Vì vậy, qua mọi thế hệ các con phải giữ ngày nầy như một luật đời đời. 18Từ buổi chiều ngày mười bốn tháng giêng các con sẽ ăn bánh không men cho đến chiều ngày hai mươi mốt tháng đó. 19Trong bảy ngày, không nên để men trong nhà; vì dù là người ngoại bang hay là người bản xứ, nếu ai ăn bánh có men sẽ bị loại trừ khỏi hội chúng Y-sơ-ra-ên. 20Chớ nên ăn thức ăn gì có men. Dù ở đâu các con cũng phải ăn bánh không men.”
21Vậy Môi-se mời tất cả trưởng lão Y-sơ-ra-ên đến và nói: “Hãy đi bắt một chiên con tùy theo gia đình mình và giết nó làm lễ Vượt Qua. 22Rồi lấy một bó bài hương nhúng vào máu trong chậu, bôi lên thanh ngang và hai thanh dọc cửa ra vào. Từ đó cho đến sáng, không ai trong anh em được ra khỏi cửa nhà mình. 23Đức Giê-hô-va sẽ đi qua để hành hại người Ai Cập; khi thấy máu nơi khung cửa ra vào, Ngài sẽ đi lướt qua và không cho thiên sứ hủy diệt vào nhà anh em để hành hại. 24Hãy giữ lễ nầy như một luật đời đời cho anh em và con cháu anh em. 25Khi nào anh em vào đất mà Đức Giê-hô-va sẽ ban cho, như lời Ngài đã hứa, thì hãy giữ lễ nầy. 26Khi con cháu anh em hỏi: ‘Lễ nầy nghĩa là gì?’ 27Hãy trả lời: ‘Ấy là lễ dâng sinh tế Vượt Qua của Đức Giê-hô-va. Vì khi hành hại người Ai Cập, Ngài đã vượt qua các nhà của dân Y-sơ-ra-ên và dung tha nhà chúng ta.’”
28Nghe xong, dân Y-sơ-ra-ên cúi đầu thờ phượng, rồi họ đi và làm đúng như lời Đức Giê-hô-va đã phán truyền Môi-se và A-rôn.

Tai vạ thứ mười: Các con đầu lòng bị giết

29Vào nửa đêm, Đức Giê-hô-va hành hại tất cả các con đầu lòng tại Ai Cập, từ thái tử của Pha-ra-ôn đang trị vì cho đến con cả của các tù nhân đang bị giam trong ngục, và tất cả con đầu lòng của súc vật. 30Đang đêm, Pha-ra-ôn và quần thần cùng tất cả người Ai Cập đều thức dậy. Có tiếng kêu khóc inh ỏi trong Ai Cập vì chẳng một nhà nào là không có người chết. 31Trong đêm đó, Pha-ra-ôn gọi Môi-se và A-rôn đến và nói: “Hai ngươi và dân Y-sơ-ra-ên hãy trỗi dậy, ra khỏi dân ta và đi phục vụ Đức Giê-hô-va như các ngươi đã nói. 32Cũng hãy dẫn bầy chiên và đàn gia súc đi như lời các ngươi đã nói, và cầu phước cho ta nữa.”
33Người Ai Cập thúc giục dân Y-sơ-ra-ên mau ra khỏi bờ cõi vì họ nói: “Chúng ta sẽ chết cả thôi!” 34Vậy dân chúng đem bột nhồi chưa lên men đi và gói luôn cả những thùng nhồi bột vào trong áo tơi rồi vác lên vai. 35Dân Y-sơ-ra-ên cũng đã làm theo lời Môi-se dặn, họ xin người Ai Cập các thứ châu báu bằng bạc, bằng vàng và quần áo. 36Đức Giê-hô-va làm cho dân chúng được ơn dưới mắt người Ai Cập, nên họ sẵn lòng cho những gì dân Y-sơ-ra-ên xin. Như thế, dân Y-sơ-ra-ên đã tước đoạt của cải người Ai Cập.
37Dân Y-sơ-ra-ên đi từ Ram-se đến Su-cốt; có khoảng sáu trăm nghìn đàn ông đi bộ, không tính trẻ con. 38Cũng có một số đông người ngoại bang cùng đi, mang theo rất nhiều đàn chiên và gia súc. 39Họ nướng bánh không men bằng bột đã đem theo từ Ai Cập. Bột không có men vì họ bị đuổi khỏi Ai Cập một cách gấp rút nên không kịp chuẩn bị lương thực.
40Thời gian dân Y-sơ-ra-ên cư ngụ tại Ai Cập là bốn trăm ba mươi năm. 41Đúng vào ngày cuối cùng của bốn trăm ba mươi năm, tất cả các đạo quân của Đức Giê-hô-va ra khỏi Ai Cập. 42Ấy là đêm Đức Giê-hô-va canh giữ, vì trong đêm đó Ngài đã đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập. Vì thế, qua mọi thế hệ, dân Y-sơ-ra-ên phải giữ đêm đó để tôn kính Đức Giê-hô-va.
43Đức Giê-hô-va phán với Môi-se và A-rôn: “Đây là luật về lễ Vượt Qua: Người ngoại bang không được ăn lễ đó. 44Còn với nô lệ đã được mua bằng tiền thì chỉ sau khi chịu cắt bì, họ mới được ăn. 45Khách vãng lai và người làm thuê cũng không được ăn. 46Lễ đó chỉ được ăn trong nhà; đừng đem thịt ra ngoài và cũng đừng làm gãy một cái xương nào. 47Toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên phải giữ lễ Vượt Qua. 48Khi có ngoại kiều tạm trú trong nhà các con muốn giữ lễ Vượt Qua của Đức Giê-hô-va, thì mọi người nam của họ phải chịu cắt bì rồi mới được đến gần và giữ lễ nầy; người ấy được coi như người bản xứ. Nhưng ai không chịu cắt bì thì sẽ không được ăn. 49Đó là một luật chung cho người bản xứ cũng như cho ngoại kiều cư ngụ giữa các con.”
50Toàn dân Y-sơ-ra-ên đều làm như lời Đức Giê-hô-va đã truyền bảo Môi-se và A-rôn. 51Chính trong ngày đó, Đức Giê-hô-va đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập theo đội ngũ.

Bình luận

Được cứu bởi Chiên Con của Đức Chúa Trời

Chúa Giê-su nói với các môn đồ: 'Các con biết còn hai ngày nữa là đến lễ Vượt Qua, và Con Người sẽ bị nộp để chịu đóng đinh trên thập tự giá' (Ma-thi-ơ 26:2). Sứ đồ Phao-lô viết: 'Vì Đấng Christ, Chiên Con lễ Vượt Qua của chúng ta đã được dâng làm sinh tế rồi' (I Cô-rinh-tô 5:7b).

Huyết chiên con đã bảo vệ dân sự của Đức Chúa Trời theo giao ước cũ tại Lễ Vượt Qua đầu tiên (Xuất Ê-díp-tô Ký 12:1–30). Bây giờ bạn tốt hơn rất nhiều dưới giao ước mới. Huyết của Chúa Giê-su (Chiên Con của Đức Chúa Trời) tẩy sạch và bảo vệ bạn đời đời (Hê-bơ-rơ 9:12–26).

Vào Lễ Vượt Qua đầu tiên, một con chiên phải được hiến tế. Chiên con phải 'không tì vết' (Xuất Ê-díp-tô Ký 12:5), ý chỉ Chúa Giê-su vô tội. Có sự nhấn mạnh lớn về 'huyết' của chiên con (c.7,13,22–23). Huyết của con chiên không tì vết phải đổ ra làm sinh tế (c.27). Khi Giăng Báp-tít nhìn thấy Chúa Giê-su, ông nói: ‘Kìa Chiên Con của Đức Chúa Trời, là Đấng cất tội lỗi của thế gian đi!’ (Giăng 1:29).

Huyết của Chiên Con bảo vệ dân sự khỏi sự phán xét của Đức Chúa Trời. Đó là 'sinh tế Vượt Qua' (Xuất Ê-díp-tô Ký 12:27). Điều này báo trước sự hy sinh của Chúa Giê-su.

Lời dạy của Đức Chúa Trời về con chiên trong Lễ Vượt Qua, ‘đừng làm gãy một cái xương nào’ (c.46), đã được ứng nghiệm cụ thể khi Chúa Giê-su chết. Bẻ gãy chân một người là một cách đẩy nhanh cái chết bằng cách đóng đinh. Họ đánh gãy chân hai người bị đóng đinh với Chúa Giê-su, ‘nhưng khi đến chỗ Đức Chúa Jêsus, họ thấy Ngài đã chết rồi, nên không đánh gãy ống chân Ngài’ (Giăng 19:33).

Nơi nào có vết máu trên khung cửa của một ngôi nhà, điều đó cho thấy rằng nhà đó đã có người chết. Những người tuân theo lời Đức Chúa Trời bằng cách bôi máu lên khung cửa đã được tha. Huyết của Chúa Giê-su, Chiên Con của Đức Chúa Trời, đã đổ ra cho bạn và tôi. Lễ Vượt Qua cho thấy Chúa Giê-su đã chết như thế nào để làm của lễ hy sinh thay cho chúng ta. Ngài đã cứu bạn.

Cầu nguyện

Lạy Cha, cảm ơn Cha vì huyết của Chúa Giê-su đã đổ ra cho con. Con dâng hiến toàn bộ cuộc đời con cho Chúa: thân thể và tâm trí con; ý chí của con và tất cả các quyết định của con; gia đình con và tất cả các mối quan hệ của con; tài chính của con và tất cả những gì Ngài đã ban cho con; công việc của con và sự phục vụ Ngài. Trong Danh Chúa Giê-su, con nhận được sự bảo vệ đến từ huyết Chiên Con trong đời sống con.

Pippa chia sẻ

Như chúng ta thấy trong Ma -thi -ơ 27, một trong những sai lầm của Phi-lát là ông ấy đã không nghe lời vợ! (c.19)

reader

App

Tải xuống ứng dụng Kinh Thánh Trong Một Năm dành cho thiết bị iOS hoặc Android và đọc theo mỗi ngày.

reader

Email

Đăng ký ngay bây giờ để nhận Kinh thánh trong một năm trong hộp thư đến của bạn mỗi sáng. Bạn sẽ nhận được một email mỗi ngày.

reader

Website

Bắt đầu đọc sự tận tâm của ngày hôm nay ngay tại đây trên trang web BiOY.

Read now
reader

Book

Kinh thánh trong một năm bình luận có sẵn như là một cuốn sách.

Tham khảo

Trừ khi có quy định khác, các trích dẫn Kinh thánh được lấy từ Kinh thánh, Phiên bản quốc tế mới được Anh hóa, Bản quyền © 1979, 1984, 2011 Biblica, trước đây là Hiệp hội Kinh thánh Quốc tế. Được sử dụng dưới sự cho phép của Hodder & Stoughton Publishers, một công ty của Hachette UK. Đã đăng ký Bản quyền. 'NIV' là nhãn hiệu đã đăng ký của Biblica. Nhãn hiệu Vương quốc Anh số 1448790.

Các trích dẫn Kinh thánh được đánh dấu (AMP) lấy từ Kinh thánh Amplified®, Bản quyền © 1954, 1958, 1962, 1964, 1965, 1987 của The Lockman Foundation. Được sử dụng bởi sự cho phép. (www.Lockman.org)

This website stores data such as cookies to enable necessary site functionality and analytics. Find out more