Làm Sao Để Gặp Gỡ Chúa
Giới thiệu
Năm 1949, một trong những cuộc phục hưng vĩ đại nhất trong lịch sử Vương quốc Anh đã được diễn ra tại Hebrides. Duncan Campbell, một nhà thuyết giáo trong cuộc phục hưng, đã mô tả về sự khởi đầu của nó.
Bảy người đàn ông và hai người phụ nữ đã cùng nhau cầu nguyện khẩn thiết để cầu xin sự phục hưng. Một đêm nọ, trong một buổi cầu nguyện được tổ chức tại kho thóc, một chàng thanh niên nọ đã cầm Kinh Thánh và đọc trong Thi Thiên 24 (phân đoạn của ngày hôm nay): "Ai sẽ lên núi Đức Giê-hô-va? Ai sẽ đứng nổi trong nơi thánh Ngài? Đó là người có tay trong sạch và lòng thanh khiết" (c.3–4a).
Anh ấy đóng Kinh Thánh lại và nói rằng: "Tôi thấy cách chúng ta đang cầu nguyện và chờ đợi như hiện tại dường như có quá nhiều thứ không đúng, nhất là khi bản thân chúng ta không có mối liên hệ đúng đắn với Chúa." Sau đó, anh xin Chúa bày tỏ cho anh biết liệu rằng tay anh có trong sạch và lòng anh có thánh khiết.
Đêm hôm đó, Chúa đã gặp gỡ họ một cách đầy quyền năng. Khi họ trông đợi nơi Chúa, "sự hiện diện đáng kinh ngạc của Ngài đã quét qua cả kho thóc ấy". Họ hiểu rằng sự phục hưng và sự thánh khiết luôn có mối liên hệ với nhau. Một sức mạnh đã làm rung chuyển cả điểm nhóm đó từ trong ra ngoài.
"Ba người đàn ông nằm trên đống rơm, quy phục dưới quyền năng của Chúa. Họ đã được mang ra khỏi sự tầm thường để trở nên thật phi thường. Họ biết rằng Chúa đã viếng thăm họ và họ, cũng như cả điểm nhóm của họ, sẽ không bao giờ còn như trước nữa."
Cách đó bốn dặm, hai chị em nọ, một người 82 tuổi và một người 84 tuổi, đã thấy một khải tượng của Chúa. Họ thấy các nhà thờ đông đúc, người trẻ và cả cộng đồng đổ xô vào các Hội Thánh. Họ có "một sự tin chắc rằng Đức Chúa Trời sẽ đến trong năng quyền phục sinh."
Duncan Campbell từng được mời đến giảng tại đó. Khi ông đến điểm nhóm, có hàng trăm người đang đợi ở bên ngoài. Không ai biết họ từ đâu đến. Trong mười phút đầu của buổi nhóm, mọi người bắt đầu kêu cầu Chúa. Họ được gặp gỡ Chúa trong sự thánh khiết của Ngài.
Có một cảm giác đặc biệt về sự hiện diện của Chúa trên hòn đảo ấy, đến nỗi một doanh nhân khi đến đó đã phải thốt lên rằng: "Ngay khi đặt chân lên hòn đảo, tôi bỗng nhiên ý thức được sự hiện diện của Chúa." Chúa đang gặp gỡ con dân Ngài.
Làm sao bạn và tôi có thể gặp gỡ Chúa?
Thi Thiên 24:1-10
Vua vinh hiển vào thành Si-ôn
Thi Thiên của Đa-vít
1 Đất và muôn vật trên đất,
Thế giới và những người ở trong đó đều thuộc về Đức Giê-hô-va.
2 Vì Ngài lập trái đất trên biển cả,
Và đặt nền nó trên các dòng nước.
3 Ai sẽ lên núi Đức Giê-hô-va?
Ai sẽ đứng nổi trong nơi thánh Ngài?
4 Đó là người có tay trong sạch và lòng thanh khiết,
Không hướng linh hồn mình vào thần tượng hư không,
Cũng chẳng thề nguyện giả dối.
5 Người ấy sẽ nhận được phước từ nơi Đức Giê-hô-va
Và sự công chính từ nơi Đức Chúa Trời là Đấng cứu rỗi mình.
6 Đó là dòng dõi của những người tìm kiếm Đức Giê-hô-va,
Tức là những người tìm kiếm mặt Đức Chúa Trời của Gia-cốp.
7 Hỡi các cổng, hãy ngẩng đầu lên!
Hỡi các cửa cổ kính, hãy mở cao lên!
Thì Vua vinh hiển sẽ vào.
8 Vua vinh hiển nầy là ai?
Chính là Đức Giê-hô-va đầy sức mạnh và quyền năng,
Đức Giê-hô-va mạnh mẽ trong chiến trận.
9 Hỡi các cổng, hãy ngẩng đầu lên!
Hỡi các cửa đời đời, hãy mở cao lên!
Thì Vua vinh hiển sẽ vào.
10 Vua vinh hiển nầy là ai?
Đó là Đức Giê-hô-va vạn quân,
Chính Ngài là Vua vinh hiển.
Bình luận
Đặc quyền tuyệt vời
Đa-vít bắt đầu chương Thi Thiên này bằng lời nhắc nhở rằng Đức Chúa Trời là Đấng sáng tạo đầy quyền năng: "Đất và muôn vật trên đất, thế giới và những người ở trong đó đều thuộc về Đức Giê-hô-va" (c.1). Và ông kết thúc bằng lời nhắc nhở rằng Đức Chúa Trời là Vua vinh hiển. Riêng trong phân đoạn này, có 5 lần Ngài được nhắc đến với danh xưng “Vua vinh hiển” (c.7b,8a,9b,10a,10b). Ngài là "Đức Giê-hô-va vạn quân, chính Ngài là Vua vinh hiển" (c.10b).
Trước bản chất cao cả và quyền năng của Đức Chúa Trời, Đa-vít đã hỏi rằng: "Ai sẽ lên núi Đức Giê-hô-va? Ai sẽ đứng nổi trong nơi thánh Ngài?" (c.3). Đáp án cho câu hỏi đó chính là những người hoàn toàn trong sạch: "Đó là người có tay trong sạch và lòng thanh khiết, không hướng linh hồn mình vào thần tượng hư không" (c.4).
Tuy nhiên, chúng ta biết rằng không ai có thể sống được như thế. Chỉ duy qua Chúa Giê-xu, chúng ta mới có thể trở nên thánh và được mạnh dạn đến gần với Đức Chúa Trời: "Vì nhờ một sinh tế duy nhất, Ngài làm cho những người được thánh hóa trở nên toàn hảo mãi mãi" (Hê-bơ-rơ 10:14).
Cầu nguyện
Lạy Chúa, ngày hôm nay, con muốn được gặp gỡ Ngài. Xin bày tỏ cho con biết liệu tay con có trong sạch và lòng con có thánh khiết hay không. Cảm ơn Chúa vì qua huyết của Chúa Giê-xu, con được trở nên thánh trước mặt Ngài. Xin Ngài tha thứ tội lỗi của con, thanh tẩy đời sống con và đồ đầy con bằng Thánh Linh Ngài.
Mác 5:21-6:6a
Con gái Giai-ru và người phụ nữ bị rong huyết
5 Đức Chúa Jêsus lại xuống thuyền vượt qua bờ bên kia. Một đoàn người rất đông tụ họp chung quanh Ngài lúc Ngài đang ở bên bờ biển. 22 Bấy giờ, một trong những viên quản lý nhà hội tên là Giai-ru đến. Khi thấy Đức Chúa Jêsus, ông liền phủ phục dưới chân Ngài, 23 nài xin rằng: “Con gái nhỏ của tôi sắp chết. Xin Thầy đến và đặt tay trên cháu, để cháu được chữa lành và sống.” 24 Đức Chúa Jêsus đi với Giai-ru. Một đoàn người rất đông cùng đi theo và lấn ép Ngài. 25 Trong số đó có một phụ nữ bị rong huyết đã mười hai năm. 26 Lâu nay bà đã khốn khổ trong tay nhiều thầy thuốc, hao tốn hết tiền của, nhưng bệnh không thuyên giảm mà ngày càng nặng thêm. 27 Bà đã nghe nói về Đức Chúa Jêsus nên lẩn vào giữa đám đông, tiến đến phía sau Ngài và chạm vào áo Ngài. 28 Vì bà tự nhủ: “Chỉ cần chạm được áo Ngài, thì ta sẽ được lành.” 29 Lập tức, máu cầm lại. Bà cảm nhận ngay rằng mình đã được chữa lành. 30 Đức Chúa Jêsus liền nhận biết có một năng quyền vừa ra từ Ngài nên Ngài quay sang phía đám đông và hỏi: “Ai đã chạm vào áo Ta?” 31 Các môn đồ thưa: “Thầy thấy đám đông chen lấn Thầy, sao Thầy còn hỏi: ‘Ai chạm đến Ta?’ ” 32 Ngài nhìn chung quanh để xem ai đã làm điều đó. 33 Người phụ nữ biết điều gì đã xảy đến cho mình nên run sợ, đến phủ phục dưới chân Ngài và trình bày với Ngài tất cả sự thật. 34 Đức Chúa Jêsus phán: “Hỡi con gái Ta, đức tin của con đã cứu con; hãy đi bình an và được lành bệnh.”
35 Khi Ngài còn đang nói, có người từ nhà của Giai-ru đến nói với ông: “Con gái ông đã chết rồi, còn phiền Thầy làm gì nữa?” 36 Chẳng bận tâm đến những lời ấy, Đức Chúa Jêsus bảo viên quản lý nhà hội: “Đừng sợ, chỉ tin mà thôi.” 37 Ngài không cho ai theo mình ngoài Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng, em Gia-cơ. 38 Đến nhà Giai-ru, thấy mọi người đang làm om sòm, kẻ khóc người than inh ỏi, 39 Ngài bước vào nhà và nói với họ: “Sao các ngươi làm ồn ào và khóc lóc vậy? Không phải cháu bé chết đâu, nhưng nó đang ngủ.” 40 Họ nhạo cười Ngài. Ngài đuổi mọi người ra ngoài, rồi đưa cha mẹ đứa trẻ cùng ba môn đồ đến chỗ cháu bé đang nằm. 41 Ngài cầm tay cháu bé và phán: “Ta-li-tha-cum”; nghĩa là: “Nầy bé gái, Ta truyền cho con hãy trỗi dậy.” 42 Lập tức cháu gái trỗi dậy và bước đi, vì cháu đã lên mười hai tuổi. Mọi người đều kinh ngạc. 43 Ngài nghiêm giọng ra lệnh cho họ không được cho ai biết việc nầy, và bảo họ cho đứa trẻ ăn.
Đức Chúa Jêsus tại Na-xa-rét
1 Đức Chúa Jêsus rời nơi đó, trở về quê hương mình; các môn đồ cùng đi theo. 2 Đến ngày sa-bát, Ngài bắt đầu dạy dỗ trong nhà hội. Nhiều người nghe Ngài giảng thì kinh ngạc và nói: “Do đâu ông nầy có được những điều ấy? Sự khôn ngoan mà ông ta được ban cho là gì? Làm sao tay ông ta có thể làm được nhiều việc quyền năng như thế? 3 Chẳng phải ông nầy là người thợ mộc, con trai Ma-ri, anh của Gia-cơ, Giô-sê, Giu-đe, và Si-môn đó sao? Các em gái ông chẳng phải đang ở đây với chúng ta sao?” Và họ vấp phạm vì Ngài. 4 Nhưng Đức Chúa Jêsus phán: “Nhà tiên tri không bị khinh dể, ngoại trừ giữa quê hương, bà con và gia đình mình.” 5 Ở đó Ngài không thể làm một việc quyền năng nào ngoài việc đặt tay trên một vài người đau ốm và chữa lành cho họ. 6 Ngài ngạc nhiên vì lòng vô tín của họ.
Rồi Ngài đi giảng dạy khắp các làng gần đó.
Bình luận
Hành động của đức tin
Bạn có đang vật lộn với một nan đề dai dẳng nào đó trong cuộc sống mà nó dường như mãi chẳng khá hơn không (5:26)? Bạn đã bao giờ cảm thấy hoảng hốt và sợ hãi chưa? Trong phân đoạn này, chúng ta thấy cách Chúa Giê-xu đối đãi với những người đang ở trong tình cảnh như thế.
Trong Tân Ước, việc con người được gặp gỡ Đức Chúa Trời thông qua Chúa Giê-xu dường như là một điều rất phi thường. Sứ đồ Giăng (1 Giăng 1:1) viết về "Lời Sự Sống" mà "chúng tôi đã nghe nói" (Mác 5:27), "chính mắt chúng tôi đã thấy" (c.22) và "tay chúng tôi đã chạm vào" (c.27,30–31).
Những người tiếp xúc với Chúa Giê-xu dường như có một cảm giác như thể họ đang được bước vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời thánh khiết. Giai-ru "phủ phục dưới chân Ngài" (c.22). Người phụ nữ bị bệnh cũng "phủ phục dưới chân Ngài" (c.33).
Người phụ nữ này đã mắc một căn bệnh mãn tính trong suốt 12 năm, và tại thời điểm đó, căn bệnh ấy vốn là vô phương cứu chữa (c.26). "Bà đã nghe nói về Đức Chúa Giê-xu" (c.27) và đáp lại bằng cả đức tin. Bà "chạm vào áo Ngài" vì bà nghĩ, "chỉ cần chạm được áo Ngài, thì ta sẽ được lành" (c.27–28). "Lập tức, máu cầm lại. Bà cảm nhận ngay rằng mình đã được chữa lành" (c.29).
Việc được tiếp xúc với Chúa Giê-xu đã có tác động rất lớn trên những người đó. Chúa Giê-xu phán với người phụ nữ bị bệnh ấy rằng: "Hãy đi bình an và được lành bệnh" (c.34). Nỗi đau kéo dài suốt 12 năm đã được thay thế bằng sự bình an và tự do. Dù bạn đang phải vật lộn với bất cứ điều gì trong cuộc sống của mình và bất kể là nó đã kéo dài trong bao lâu, hãy như người phụ nữ này, tìm đến Chúa Giê-xu để nhận sự giúp đỡ của Ngài.
Con gái của Giai-ru đã kinh nghiệm được sự tác động lớn lao đến từ việc gặp gỡ Chúa Giê-xu khi cô bé được sống lại. Khi Chúa Giê-xu đến, không có gì khác ngoài bầu không khí bao trùm bởi đức tin. Có sự hỗn loạn và than khóc. Họ nói đừng "làm phiền" Chúa Giê-xu (c.35). Nhưng Ngài đã bảo rằng: "Đừng sợ, chỉ tin mà thôi" (c.36).
Chúa Giê-xu nói: "Không phải cháu bé chết đâu, nhưng nó đang ngủ" (c.39). Vì Chúa Giê-xu sẽ làm cho cô bé sống lại, nên cái chết của cô bé không phải là vĩnh viễn, mà chỉ giống như một giấc ngủ. Sứ đồ Phao-lô, cũng như Chúa Giê-xu, đã dùng hình ảnh về giấc ngủ. Khi bạn chìm sâu vào giấc ngủ, điều tiếp theo bạn biết đó là trời đã sáng rồi. Khi bạn chết trong Đấng Christ, điều tiếp theo bạn biết đó là bạn sẽ được ở với Chúa.
Chúa Giê-xu chỉ giữ lại ba môn đồ mà Ngài tin tưởng (ngoài cha mẹ của đứa trẻ). Dường như Ngài muốn có một bầu không khí đầy dẫy đức tin khi Ngài cầu nguyện cho cô bé sống lại từ cõi chết.
Chúa Giê-xu chẳng liên quan đến "thế lực siêu nhiên" nào cả. Ngài rất thực tế. Ngài bảo họ hãy "cho đứa trẻ ăn" (c.43). Và một lần nữa, đây lại là một câu chuyện bắt đầu bằng sự sợ hãi và kết thúc bằng đức tin.
Khi mọi người nhìn thấy những điều Chúa Giê-xu làm, họ đều vô cùng "kinh ngạc" (c.42b, 6:2b). Tất nhiên, tương tự như ngày nay, không phải ai cũng có phản ứng đó. Một số người "nhạo cười Ngài" (5:40) và xúc phạm Ngài (6:3). Tại quê nhà của mình, Chúa Giê-xu là "nhà tiên tri bị khinh dể" (6:4). Những người thân cận nhất với Ngài đã không nhận ra Ngài. Đôi khi, sẽ khó để lấy được thứ gì đó từ những người mà chúng ta biết rõ nhất.
Như ngày hôm nay, một số người đã nhận ra Chúa Giê-xu, còn một số người thì hoàn toàn bỏ lỡ Ngài. Sự khác biệt nằm ở việc liệu họ có "đức tin" hay không. Ngài nói với người đàn bà bị bệnh rằng: "đức tin của con đã cứu con" (5:34). Ông nói với Giai-ru: "Đừng sợ, chỉ tin mà thôi" (c.36b). Tại quê nhà, Ngài đã "ngạc nhiên vì lòng vô tín của họ" (6:6).
Qua sự chết của Ngài trên thập tự giá, Chúa Giê-xu đã làm trọn tiêu chuẩn để được gặp Đức Chúa Trời. Giờ đây, chính nhờ đức tin mà bạn và tôi có thể đến với Chúa Giê-xu, và rồi qua Ngài, chúng ta được gặp gỡ Đức Chúa Trời.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, cảm tạ ơn Chúa vì bởi đức tin, con được gặp gỡ Ngài. Xin cho con được thêm lên trong đức tin. Khi con hoảng hốt và sợ hãi, xin giúp con tiếp tục vững tin nơi Ngài.
Xuất Ai Cập Ký 27:1-28:43
Bàn thờ dâng tế lễ thiêu
27 “Con hãy đóng một bàn thờ bằng gỗ si-tim hình vuông, mỗi cạnh hai mét hai, và cao khoảng một mét ba. 2 Con làm sừng gắn ở bốn góc bàn thờ; các sừng ấy phải thành một khối với bàn thờ. Con cũng dùng đồng bọc bàn thờ. 3 Những dụng cụ của bàn thờ như bình đựng tro, xẻng, chậu, nĩa và lư hương đều phải làm bằng đồng. 4 Con cũng làm cho bàn thờ một cái rá bằng lưới đồng có bốn khoen đồng ở bốn góc, 5 và để rá đó dưới thành bàn thờ, khoảng nửa chiều cao của bàn thờ. 6 Con cũng làm các đòn khiêng bàn thờ bằng gỗ si-tim bọc đồng, 7 rồi xỏ đòn vào các khoen, để khi khiêng đi thì đòn sẽ ở hai bên bàn thờ. 8 Bàn thờ sẽ ghép bằng ván, rỗng bên trong. Hãy làm đúng như Ta đã chỉ dẫn cho con trên núi vậy.”
Hành lang của Đền Tạm
9 “Con hãy làm hành lang cho Đền Tạm. Phía nam của hành lang có các tấm rèm bằng sợi gai mịn dài bốn mươi bốn mét; 10 hai mươi cây trụ và hai mươi lỗ trụ bằng đồng; còn các móc trụ và thanh liên kết thì bằng bạc. 11 Cũng vậy, theo chiều dài của hành lang phía bắc có các tấm rèm dài bốn mươi bốn mét, hai mươi cây trụ và hai mươi lỗ trụ bằng đồng; nhưng các móc trụ và thanh liên kết thì bằng bạc. 12 Theo chiều rộng của hành lang phía tây có các tấm rèm dài hai mươi hai mét với mười cây trụ và mười lỗ trụ. 13 Chiều rộng của hành lang phía đông là hai mươi hai mét. 14 Ở một bên cổng có các tấm rèm sáu mét sáu, với ba cây trụ và ba lỗ trụ; 15 ở bên kia cũng có các tấm rèm sáu mét sáu, với ba cây trụ và ba lỗ trụ. 16 Còn ở cửa hành lang sẽ có một bức màn dài tám mét tám bằng vải gai mịn, chỉ xanh, chỉ đỏ tía và đỏ thắm, được thêu mỹ thuật, cùng với bốn cây trụ và bốn lỗ trụ. 17 Tất cả các trụ chung quanh hành lang đều phải có các thanh bằng bạc, móc trụ bằng bạc, và lỗ trụ bằng đồng. 18 Chiều dài của hành lang phải là bốn mươi bốn mét, rộng hai mươi hai mét, cao hai mét hai với các rèm bằng vải gai mịn và lỗ trụ bằng đồng. 19 Tất cả các dụng cụ dùng vào việc tế lễ trong Đền Tạm, các cây cọc của Đền Tạm và cây cọc của hành lang, đều phải làm bằng đồng.”
Dầu thắp đèn
20 “Con hãy truyền cho dân Y-sơ-ra-ên đem đến cho con dầu nguyên chất ép từ trái ô-liu để thắp đèn và giữ cho đèn được thắp sáng liên tục. 21 Trong Lều Hội Kiến, bên ngoài bức màn trước Hòm Chứng Ước, A-rôn và các con trai người sẽ gìn giữ cho ngọn đèn luôn sáng trước mặt Đức Giê-hô-va từ tối cho đến sáng. Đây sẽ là một luật đời đời cho các thế hệ con dân Y-sơ-ra-ên.”
Lễ phục cho thầy tế lễ A-rôn và các con
28 “Từ trong dân Y-sơ-ra-ên, con hãy chọn A-rôn, anh con, và các con trai người là Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa, và Y-tha-ma, phong làm chức tế lễ cho Ta.
2 Con hãy may lễ phục thánh thật trang trọng và vinh dự cho A-rôn, anh con. 3 Hãy truyền cho tất cả những người có tài năng, những người mà Ta đã ban năng khiếu đặc biệt, may lễ phục cho A-rôn, để cung hiến người vào chức vụ tế lễ cho Ta. 4 Đây là bộ lễ phục mà họ phải may: Bảng đeo ngực, ê-phót, áo dài, áo lót có thêu, mũ và thắt lưng. Vậy, họ sẽ may lễ phục thánh cho A-rôn và các con trai người để những người nầy thi hành chức vụ tế lễ cho Ta. 5 Họ sẽ dùng vải gai mịn, dây kim tuyến, chỉ xanh, chỉ đỏ tía và đỏ thắm mà làm.”
Ê-phót
6 “Họ sẽ may ê-phót một cách mỹ thuật với sợi gai mịn, dây kim tuyến, chỉ xanh, chỉ đỏ tía và đỏ thắm. 7 Có hai cầu vai gắn vào hai bên ê-phót; như vậy ê-phót dính liền nhau. 8 Đai thắt trên ê-phót cũng được may cùng một cách và chất liệu như ê-phót, tức là sợi gai mịn, sợi kim tuyến, chỉ xanh, chỉ đỏ tía và đỏ thắm. 9 Con cũng lấy hai viên ngọc mã não và khắc lên đó tên các con trai Y-sơ-ra-ên: 10 sáu tên trên viên ngọc nầy, sáu tên trên viên ngọc kia, theo thứ tự ngày sinh của họ. 11 Phải khắc tên các con trai Y-sơ-ra-ên trên hai viên ngọc đó theo cách của thợ khắc con dấu, rồi khảm trong khuôn khảm bằng vàng. 12 Con sẽ gắn hai viên ngọc đó trên hai cầu vai ê-phót, như là những viên ngọc kỷ niệm về các con trai Y-sơ-ra-ên. A-rôn sẽ mang tên của họ trên hai vai mình trước mặt Đức Giê-hô-va như một kỷ niệm. 13 Con cũng hãy làm khuôn khảm bằng vàng 14 và hai dây chuyền bằng vàng ròng xoắn như dây thừng, rồi gắn hai dây chuyền đó vào khuôn khảm.”
Bảng đeo ngực
15 “Con cũng phải làm một bảng đeo ngực về sự phán xét thật mỹ thuật. Con phải làm theo cách đã làm ê-phót, tức là với sợi gai mịn, dây kim tuyến, chỉ xanh, chỉ đỏ tía và đỏ thắm. 16 Bảng đeo ngực có hình vuông và may hai lớp, dài một gang tay, rộng một gang tay. 17 Con hãy đính vào bảng đeo ngực bốn hàng ngọc: hàng thứ nhất là ngọc mã não, ngọc hồng bích, và ngọc lục bửu; 18 hàng thứ nhì là ngọc phỉ túy, ngọc lam bửu và ngọc kim cương; 19 hàng thứ ba là ngọc hồng bửu, ngọc bạch mã não, và ngọc tử tinh, 20 hàng thứ tư là ngọc hoàng bích, ngọc hồng mã não, và bích ngọc. Các viên ngọc nầy phải được khảm vào khuôn bằng vàng. 21 Tổng số ngọc đó là mười hai viên, tương ứng với tên các con trai Y-sơ-ra-ên; trên mỗi viên ngọc sẽ khắc tên của một trong mười hai bộ tộc Y-sơ-ra-ên, như người ta khắc con dấu vậy.
22 Con hãy làm cho bảng đeo ngực các dây chuyền bằng vàng ròng xoắn như dây thừng, 23 làm hai khoen bằng vàng và đính hai khoen ấy vào hai góc trên của bảng đeo ngực. 24 Con hãy xâu hai dây chuyền vàng vào hai khoen ở góc trên của bảng đeo ngực, 25 còn đầu kia của hai dây chuyền thì gắn vào khuôn khảm, và gắn vào phía trước cầu vai của ê-phót. 26 Con cũng làm hai khoen bằng vàng khác và gắn chúng vào hai góc dưới của bảng đeo ngực, phía trong ê-phót. 27 Con lại làm hai khoen bằng vàng khác gắn trước phần phía dưới của hai cầu vai ê-phót, ngay chỗ mối giáp phía trên đai thắt của ê-phót. 28 Rồi người ta sẽ dùng một sợi dây màu xanh buộc các khoen của bảng đeo ngực với các khoen ê-phót; như thế bảng đeo ngực dính với đai thắt, không bị rời khỏi ê-phót. 29 Như vậy, khi vào Nơi Thánh A-rôn sẽ mang trên ngực tên các con trai Y-sơ-ra-ên nơi bảng đeo ngực về sự phán xét, như một kỷ niệm thường xuyên trước mặt Đức Giê-hô-va. 30 Con hãy gắn U-rim và Thu-mim trên bảng đeo ngực về sự phán xét, để chúng sẽ ở trên ngực A-rôn khi ông đến trước mặt Đức Giê-hô-va. Vì vậy, trước mặt Đức Giê-hô-va, A-rôn sẽ thường xuyên mang sự phán xét các con trai Y-sơ-ra-ên trên lòng mình.”
Áo dài và các lễ phục khác
31 “Con cũng hãy may áo dài của ê-phót toàn bằng vải xanh. 32 Giữa áo phải khoét một lỗ tròng đầu, có viền chung quanh, như cổ áo giáp để khỏi bị tưa. 33 Trên lai áo hãy thắt những trái lựu màu xanh, đỏ tía, đỏ thắm, với các chuông vàng nhỏ đính vòng theo lai áo, 34 cứ một cái chuông vàng thì xen kẽ một trái lựu và vòng hết cả lai áo. 35 A-rôn sẽ mặc áo đó mỗi khi hành lễ; khi đi vào hay ra Nơi Thánh trước mặt Đức Giê-hô-va, tiếng chuông vàng sẽ khua lên; nhờ vậy A-rôn khỏi phải chết.
36 Con cũng hãy làm một thẻ bằng vàng ròng và khắc trên đó, như cách người ta khắc con dấu, những chữ: ‘THÁNH CHO ĐỨC GIÊ-HÔ-VA.’ 37 Con buộc thẻ đó trên mũ bằng một sợi dây màu xanh ở phía trước mũ. 38 Thẻ đó sẽ ở trên trán A-rôn và A-rôn sẽ gánh lấy bất cứ tội lỗi nào liên quan đến lễ vật thánh mà con dân Y-sơ-ra-ên đã cung hiến. Thẻ sẽ luôn ở trên trán A-rôn, để dân chúng được chấp nhận trước mặt Đức Giê-hô-va.
39 Con hãy đan một áo lót bằng vải gai mịn, một cái mũ cũng bằng vải gai mịn và một thắt lưng thêu.
40 Con cũng hãy đan cho các con trai A-rôn áo lót, thắt lưng và mũ; con hãy làm cho họ được trang trọng và vinh dự. 41 Con hãy lấy các bộ lễ phục đó mặc cho A-rôn, anh con, và các con trai người. Hãy xức dầu cho họ, phong chức và cung hiến họ để họ thi hành chức vụ tế lễ cho Ta. 42 Hãy may cho họ quần lót bằng vải gai, để che kín từ ngang lưng đến bắp đùi. 43 A-rôn và các con trai người sẽ mặc quần đó mỗi khi vào Lều Hội Kiến hay đến gần bàn thờ để phục vụ trong Nơi Thánh; nếu không họ sẽ mắc tội và phải chết. Ấy là một luật đời đời cho A-rôn và dòng dõi người.”
Bình luận
Qua huyết Chúa Giê-xu
Nếu không xem qua bối cảnh Cựu Ước, chúng ta sẽ không thể hiểu hết được tại sao việc gặp gỡ Đức Chúa Trời lại được xem là một đặc ân lớn lao vô cùng. Trong phân đoạn này, chúng ta thấy phần mô tả về Lều Hội Kiến (27:21), (nơi Đức Chúa Trời gặp Môi-se và các thầy tế lễ: 30:36; 28:30). Được bước vào sự hiện diện của Chúa - "đến trước mặt Đức Giê-hô-va" (28:30a) - là một điều tuyệt vời . A-rôn đang đi vào "Nơi Thánh trước mặt Đức Giê-hô-va" (c.35).
Tác giả thư Hê-bơ-rơ có giải thích về sự liên kết giữa những điều này và Chúa Giê-xu. Đền tạm chỉ là "mô phỏng và là cái bóng của những thực thể trên trời" (Hê-bơ-rơ 8:5a). Dầu vậy, các thầy tế lễ chỉ được phép vào Nơi Thánh chứ không phải Nơi Chí Thánh. "Đức Thánh Linh dùng điều nầy để chỉ ra rằng một khi đền tạm thứ nhất vẫn còn thì đường vào Nơi Chí Thánh chưa được mở" (9:8). Đó là một "biểu tượng" (c.9a).
Như những gì tác giả thư Hê-bơ-rơ đã mô tả, phân đoạn này là nền tảng của sự hy sinh mà Chúa Giê-xu dành cho chúng ta – cho phép bạn và tôi được gặp Đức Chúa Trời thánh khiết qua huyết của Chúa Giê-xu, được dâng “một lần đủ cả” (c.26).
Cầu nguyện
Lạy Chúa, tạ ơn Chúa vì qua huyết Chúa Giê-xu, con được vào Nơi Chí Thánh và bước vào sự hiện diện của Ngài. Cảm tạ Chúa vì qua Chúa Giê-xu, con có thể "đến với Đức Chúa Cha trong một Thánh Linh" (Ê-phê-sô 2:18). Cảm tạ Chúa vì con có thể gặp gỡ Ngài.
Pippa chia sẻ
Mác 5:21-34
Có điều nào trong cuộc sống mà chúng ta không dám cầu xin Chúa Giê-xu, có thể vì điều đó quá xấu hổ hay kì quặc chăng? Người phụ nữ trong phân đoạn Mác đã gạt bỏ sự ngượng ngùng của mình sang một bên và đưa tay chạm vào Chúa Giê-xu; và Ngài đã chữa lành cho bà. Và rồi tất cả những sự hổ thẹn và đau khổ của bà đã biến mất ngay lập tức.
App
Tải xuống ứng dụng Kinh Thánh Trong Một Năm dành cho thiết bị iOS hoặc Android và đọc theo mỗi ngày.
Đăng ký ngay bây giờ để nhận Kinh thánh trong một năm trong hộp thư đến của bạn mỗi sáng. Bạn sẽ nhận được một email mỗi ngày.
Book
Kinh thánh trong một năm bình luận có sẵn như là một cuốn sách.
- Mua từ Cửa hàng Alpha
- [Mua từ Nhà sách CLC](https://clcbookshops.com/product/bible-in-one-year-the-a-commentary-by-nicky-gumbel-hard-cover-gumbel-nicky-hodder-stoughton- 9781473677067)
Tham khảo
The One Year® là nhãn hiệu đã đăng ký của Tyndale House Publishers. Được sử dụng bởi sự cho phép.
Trừ khi có quy định khác, các trích dẫn Kinh thánh được lấy từ Kinh thánh, Phiên bản quốc tế mới được Anh hóa, Bản quyền © 1979, 1984, 2011 Biblica, trước đây là Hiệp hội Kinh thánh Quốc tế. Được sử dụng dưới sự cho phép của Hodder & Stoughton Publishers, một công ty của Hachette UK. Đã đăng ký Bản quyền. 'NIV' là nhãn hiệu đã đăng ký của Biblica. Nhãn hiệu Vương quốc Anh số 1448790.
Thánh Kinh được đánh dấu (MSG) lấy từ The Message. Bản quyền © 1993, 1994, 1995, 1996, 2000, 2001, 2002. Được sử dụng dưới sự cho phép của NavPress Publishing Group.