Làm Thế Nào Để Tận Dụng Tối Đa Cuộc Đời Của Bạn
Giới thiệu
"Mọi người hay hỏi tôi rằng Mẹ Teresa trông như thế nào", Shane Claiborne đã viết trong cuốn The Irresistible Revolution (tạm dịch: Cuộc Cách mạng không thể cưỡng lại) như thế. "Đôi khi họ thắc mắc rằng liệu bà ấy có toả sáng trong bóng tối hay có vầng hào quang quanh người hay không. Bà ấy thấp, có nhiều nếp nhăn, và tốt bụng, thậm chí có thể trông khá bình thường, giống như một người bà bình thường, với vẻ xinh đẹp và khôn ngoan. Nhưng có một điều về Mẹ Teresa mà tôi không bao giờ quên – đôi chân của bà ấy. Bàn chân của bà bị biến dạng.
Mỗi buổi sáng tôi sẽ nhìn chằm chằm vào bàn chân của bà. Tôi thắc mắc liệu bà có bị bệnh phong hay không. Cho đến một hôm nọ, có người đã giải thích cho tôi rằng: "Bàn chân của bà ấy bị biến dạng bởi vì số lượng giày chúng tôi được quyên góp chỉ vừa đủ cho mọi người, và Mẹ không muốn ai phải mang đôi giày xấu xí nhất nên Mẹ đã lục lọi và lấy hết những đôi đó. Và nhiều năm làm việc đó đã khiến chân của bà bị biến dạng." Nhiều năm yêu thương người lân cận như chính mình đã làm biến dạng đôi chân của bà ấy."
Khi được hỏi về người mà mình ngưỡng mộ nhất trong cuộc đời, nhiều người trả lời rằng đó là "Mẹ Teresa". Bà ấy đã tận dụng tối đa cuộc đời của mình. Đó cũng là một nghịch lý, bởi cuộc đời của Mẹ Teresa là một cuộc đời từ bỏ chính mình và vác thập giá mình theo Chúa Giê-xu.
Cuộc đời là một món quà vô cùng tuyệt vời và vĩ đại. Xuyên suốt Kinh Thánh, chúng ta thường được thúc giục để tận dụng tối đa cuộc đời của mình, chứ không phải để lãng phí món quà mình được ban tặng.
Châm Ngôn 6:1-11
Việc bảo lãnh cho người lân cận
1 Hỡi con ta, nếu con bảo lãnh cho người lân cận mình,
Nếu con đưa tay cam kết với người xa lạ,
2 Thì con bị trói buộc vì lời miệng mình đã hứa,
Và vướng mắc vì lời miệng con đã nói ra.
3 Vậy hỡi con ta, vì con đã rơi vào tay người lân cận,
Hãy làm điều nầy để tự giải cứu mình:
Hãy đi, hạ mình và nài nỉ người lân cận con!
4 Đừng cho hai mắt con ngủ,
Hoặc mí mắt con chợp lại.
5 Hãy tự giải cứu mình như linh dương thoát khỏi tay thợ săn,
Như chim thoát khỏi tay người đánh bẫy.
Bài học từ loài kiến
6 Hỡi kẻ lười biếng, hãy đến với loài kiến,
Xem xét cách nó sống để học khôn!
7 Dù không có thủ lĩnh,
Quan chức hay người cai trị,
8 Nó vẫn biết dự trữ lương thực cho mình vào mùa hè,
Và thu gom thực phẩm trong mùa gặt.
9 Hỡi kẻ lười biếng, ngươi còn nằm mãi cho đến bao giờ?
Chừng nào ngươi mới thức giấc?
10 Ngủ một chút, chợp mắt một chút,
Khoanh tay nằm nghỉ một chút,
11 Thì sự nghèo khổ sẽ đến với ngươi như kẻ trộm cắp,
Cảnh túng thiếu sẽ tấn công ngươi như kẻ cướp có vũ trang.
Bình luận
Làm chủ tính kỷ luật
Sách Châm Ngôn mang đến cho bạn những bài học thực tế về cách để tận dụng tối đa cuộc đời của bạn và cách để tránh rơi vào những cạm bẫy làm lãng phí cuộc đời bạn. Trong phân đoạn hôm nay, chúng ta thấy hai ví dụ như sau:
- Làm chủ tài chính của bạn
Một trong những khía cạnh của cuộc sống đòi hỏi sự kỷ luật đó là tài chính. Luôn có rất nhiều cạm bẫy tài chính ngoài kia – chẳng hạn như số nợ mà bạn không thể kiểm soát, việc đầu tư thiếu khôn ngoan và những sự thế chấp dại dột. Tác giả Châm Ngôn thúc giục bạn rằng: Nếu bạn đang vướng phải một mớ hỗn độn về tài chính (c.2–5), hãy cố gắng hết sức để thoát ra khỏi nó càng sớm càng tốt.
Bạn có thể phải hạ mình xuống (c.3b). Bạn có thể phải bào chữa mình (c.3c). Hãy làm những gì mình có thể để thoát khỏi những cạm bẫy này (c.5). Nếu chúng ta không giải quyết các vấn đề tài chính của mình, nó có thể sẽ tác động rất xấu đến cuộc sống của chúng ta và gia đình chúng ta.
- Làm chủ thời gian của bạn
Chúng ta có thể lãng phí cuộc đời của mình vì sự thiếu kỷ luật. Nếu không có trách nhiệm, chúng ta sẽ dễ trở nên lười biếng, và điều này có thể gây ra những hậu quả tai hại (c.9–11). Chúng ta có thể học sự kỷ luật từ con kiến; không ai bảo nó phải làm gì cả. "Dù không có thủ lĩnh, quan chức hay người cai trị" (c.7), nó vẫn làm việc rất chăm chỉ: "Nó vẫn biết dự trữ lương thực cho mình vào mùa hè, và thu gom thực phẩm trong mùa gặt." (c.8).
Tất nhiên, việc ngủ đủ giấc vẫn vô cùng quan trọng. Cơ thể chúng ta cần được nghỉ ngơi. Nhưng chúng ta cần cẩn thận để tránh lãng phí thời gian vào những hoạt động vô bổ.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, xin cho con sự khôn ngoan để kiểm soát tài chính và thời gian của mình.
Mác 8:14-9:1
Men của người Pha-ri-si
8 Các môn đồ quên đem bánh theo; trong thuyền họ chỉ có một cái bánh thôi. 15 Ngài nhắc nhở họ: “Hãy thận trọng và đề phòng men của người Pha-ri-si và men của đảng Hê-rốt.” 16 Các môn đồ bàn luận với nhau: “Chắc tại chúng ta không có bánh.” 17 Biết điều đó, Đức Chúa Jêsus nói: “Sao các con lại bàn luận với nhau về việc các con không có bánh? Các con vẫn còn chưa biết, chưa hiểu sao? Lòng các con vẫn cứng cỏi sao? 18 Sao các con có mắt mà không thấy? Có tai mà không nghe? Các con không nhớ sao? 19 Khi Ta bẻ năm cái bánh cho năm nghìn người, các con thu được bao nhiêu giỏ đầy bánh thừa?” Họ thưa: “Mười hai giỏ.” 20 “Còn khi Ta bẻ bảy cái bánh cho bốn nghìn người, các con thu được bao nhiêu giỏ đầy bánh thừa?” Họ thưa: “Bảy giỏ.” 21 Ngài phán: “Các con vẫn còn chưa hiểu sao?”
Người mù ở Bết-sai-đa
22 Đức Chúa Jêsus và môn đồ đến làng Bết-sai-đa. Người ta đem cho Ngài một người mù và nài xin Ngài chạm vào anh. 23 Ngài nắm tay người mù, dắt anh ra khỏi làng, thoa nước miếng lên mắt và đặt tay trên anh, rồi hỏi: “Con có thấy gì không?” 24 Người mù ngước lên rồi thưa: “Con thấy người ta, nhưng trông họ như cây cối, đang di chuyển.” 25 Đức Chúa Jêsus lại đặt tay trên mắt anh; anh chăm chú nhìn, thị giác được phục hồi và anh thấy rõ mọi vật. 26 Đức Chúa Jêsus cho anh về và dặn: “Đừng trở vào trong làng.”
Sự tuyên xưng của Phi-e-rơ
27 Đức Chúa Jêsus cùng các môn đồ đi khỏi đó, vào các làng gần thành Sê-sa-rê Phi-líp. Dọc đường, Ngài hỏi các môn đồ rằng: “Thiên hạ nói Ta là ai?” 28 Họ thưa: “Người thì nói Thầy là Giăng Báp-tít; người thì nói là Ê-li; người khác thì nói là một trong các nhà tiên tri.” 29 Ngài hỏi: “Còn các con thì nói Ta là ai?” Phi-e-rơ thưa rằng: “Thầy là Đấng Christ.” 30 Đức Chúa Jêsus truyền cho các môn đồ không được nói về Ngài với ai cả.
Đức Chúa Jêsus báo trước về sự chết và sống lại của Ngài
31 Bấy giờ, Ngài bắt đầu dạy các môn đồ rằng Con Người phải chịu nhiều đau khổ, phải bị các trưởng lão, các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo chối bỏ, phải bị giết, và sau ba ngày phải sống lại. 32 Ngài nói rõ ràng việc nầy với các môn đồ. Phi-e-rơ đem Ngài riêng ra, và trách Ngài. 33 Nhưng Đức Chúa Jêsus quay lại nhìn các môn đồ, và quở trách Phi-e-rơ: “Hỡi Sa-tan, hãy lui ra đằng sau Ta, vì ngươi chẳng nghĩ đến việc của Đức Chúa Trời, mà chỉ nghĩ đến việc loài người.” 34 Sau đó, Ngài gọi dân chúng và các môn đồ đến và nói: “Nếu ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập tự giá mình mà theo Ta. 35 Vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai vì Ta và Tin Lành mà mất mạng sống, thì sẽ cứu được mạng sống mình. 36 Một người nếu được cả thế gian mà mất linh hồn mình thì có ích gì? 37 Người ấy sẽ lấy gì mà đổi lại linh hồn mình? 38 Vì nếu ai hổ thẹn về Ta và đạo Ta giữa thế hệ gian dâm tội lỗi nầy, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn về người ấy khi Ngài cùng với các thiên sứ thánh ngự đến trong vinh quang của Cha Ngài.”
9 Ngài phán với các môn đồ: “Thật, Ta bảo các con, một số trong những người đang đứng đây sẽ không chết trước khi thấy vương quốc Đức Chúa Trời đến với uy quyền.”
Bình luận
Cho đi cuộc đời của bạn
Chúa Giê-xu cảnh báo các môn đồ về "men" (8:15) của người Pha-ri-si và của Hê-rốt. "Men" là một ẩn dụ phổ biến cho khuynh hướng xấu xa của con người, mặc dù nó có vẻ nhỏ nhặt, nhưng lại làm hỏng cả con người. Các môn đồ vẫn chưa hiểu đó là vì họ quá bận tâm đến phần thuộc thể nên không thể thấy được điều thiêng liêng.
Không phải những điều thuộc thể trong con người họ là sai. Người mù muốn chạm vào Chúa Giê-xu (c.22). Ngài đã làm một việc thuộc thể – Ngài thoa nước miếng lên mắt anh và đặt tay trên anh hai lần (c.23–25). Ngài đã cầu nguyện hai lần trước khi người đàn đó được chữa lành hoàn toàn. Điều này khích lệ chúng ta tiếp tục cầu nguyện nhiều lần cho những người đang bị bệnh.
Cuối cùng, các môn đồ nhận biết được Chúa Giê-xu là ai: "Thầy là Đấng Christ" (c.29). "Đấng Christ" nghĩa là "Đấng được xức dầu, Đấng cứu thế". Vào thời Chúa Giê-xu, danh xưng này được gắn liền với mong đợi của dân sự về một vị vua mới thuộc dòng dõi Đa-vít. Tuy nhiên, trong thời Cựu Ước, các vị vua, thầy tế lễ và tiên tri đều được xức dầu. Chúa Giê-xu là Đấng làm trọn tất cả. Ngài là Vua, là Thầy tế lễ thượng phẩm và là một Tiên Tri trọn vẹn.
Thế nhưng, danh xưng "Đấng Mê-si-a" là chưa đủ. Chúa Giê-xu thích dùng đến danh xưng "Con Người" hơn (c.31). "Con Người" là một danh xưng oai nghiêm hơn, và vì thế, cũng phù hợp hơn. Danh xưng đó chứa đựng cả hình ảnh về sự đau khổ (Đa-ni-ên 7:21). "Con Người" cũng là đặc tính tiêu biểu để nói đến sự đồng nhất của Ngài với loài người.
Sau đó, Chúa Giê-xu bắt đầu nói về thập tự giá (Mác 8:31). Chúng ta không thể hiểu được ý nghĩa của thập tự giá, trừ khi chúng ta biết Chúa Giê-xu là ai. Sự giảng dạy của Ngài có quá nhiều điểm nghịch lý, khác thường và đáng kinh ngạc, đến nỗi Phi-e-rơ đã kéo Ngài riêng ra và trách Ngài (c.32).
Có một sự ẩn dụ trong câu chuyện chữa lành cho người mù, đó là một ẩn dụ mang tính trực quan - chỉ về việc mở mắt của các môn đồ. Đầu tiên, Phi-e-rơ được mở mắt về danh tính của Chúa Giê-xu (c.29). Tuy nhiên, ông chỉ hiểu một nửa. Ông chưa thấy được sứ mạng của Chúa Giê-xu (c.31-32). Phi-e-rơ có thể "thấy", nhưng ông không thể "thấy" một cách đầy đủ.
Chúa Giê-xu phải giải thích cho các môn đồ về nghịch lý lạ lùng liên quan đến việc tận dụng tối đa cuộc đời của chúng ta - chính Ngài là một ví dụ hoàn hảo cho điều này. Ngài nói nếu bạn muốn tận dụng tối đa cuộc đời của mình, bạn phải cho đi. Bạn phải hy sinh mạng sống của mình cho công tác của Ngài và Tin Lành – "Vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai vì Ta và Tin Lành mà mất mạng sống, thì sẽ cứu được mạng sống mình" (c.35).
Ngược lại, Ngài cũng nói rằng có thể có người sẽ "được cả thế gian mà mất linh hồn mình" (c.36). Nam diễn viên Jim Carrey từng nói: "Tôi nghĩ mọi người nên trở nên giàu có, nổi tiếng và làm mọi thứ mình ao ước, để rồi nhận thấy rằng đó không phải là câu trả lời."
Ngay cả những tỷ phú giàu có nhất cũng chỉ sở hữu một phần nào đó của thế giới. Chúa Giê-xu đã cảnh báo rằng nếu chúng ta bị cám dỗ đi theo con đường đó, thì ngay cả khi chúng ta thành công hơn họ và có được cả thế giới, chúng ta vẫn có thể lãng phí cuộc đời và đánh mất linh hồn của mình (c.36). Ngài nói con đường để tìm được sự sống đó là từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Ngài (c.34).
"Từ bỏ chính mình" nghĩa là nói không với chính mình. Đời sống của Cơ Đốc nhân mỗi ngày luôn chứa đựng những thách thức trong việc nói "không". Thế gian cho rằng sống là không từ chối bản thân điều gì. Nhưng Chúa Giê-xu nói điều ngược lại mới đúng. Con đường để tìm được sự sống là từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Ngài.
Bạn được gọi để yêu thương. Bạn phải sống cho Chúa và cho người khác. Và khi bạn cho đi chính mình, Chúa sẽ chăm sóc cho cuộc sống của bạn.
Sự dạy dỗ của Chúa Giê-xu mang tính nền tảng và khác biệt. Nó hoàn toàn trái ngược với những gì chúng ta mong đợi, nhưng chúng ta thấy được nó trong thực tế trông như thế nào. Những ai tìm kiếm sự thỏa mãn cho riêng mình cuối cùng sẽ bị vỡ mộng và thấy không được thỏa mãn vì đã lãng phí cuộc đời của mình; những ai tuân theo lời dạy của Chúa Giê-xu sẽ tìm thấy một sự sống trọn vẹn.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, lời dạy của Ngài thật sự thách thức con. Xin giúp con mỗi ngày học cách từ bỏ chính mình - từ những việc nhỏ cho đến những việc lớn lao, vác thập tự giá mình và theo Ngài. Cảm tạ Chúa vì khi con dâng cuộc đời của con cho Chúa, con sẽ thấy được một cuộc đời trọn vẹn và đầy đủ nhất.
Xuất Ai Cập Ký 37:1-38:31
Đóng Hòm Chứng Ước
37 Bết-sa-lê-ên đóng một cái hòm bằng gỗ si-tim dài một trăm mười cen-ti-mét, rộng sáu mươi sáu cen-ti-mét và cao sáu mươi sáu cen-ti-mét. 2 Ông bọc vàng ròng cả trong lẫn ngoài và chạy một đường viền vàng chung quanh. 3 Ông đúc bốn cái khoen bằng vàng gắn ở bốn góc: hai cái bên nầy, hai cái bên kia. 4 Ông cũng làm các cây đòn bằng gỗ si-tim bọc vàng, 5 rồi xỏ đòn vào các khoen hai bên để khiêng hòm.
Làm nắp thi ân
6 Ông cũng làm một nắp thi ân bằng vàng ròng dài một trăm mười cen-ti-mét, rộng sáu mươi sáu cen-ti-mét. 7 Sau đó ông làm hai chê-ru-bim bằng vàng dát mỏng, đặt ở hai đầu nắp thi ân: 8 một cái ở đầu nầy và một cái ở đầu kia, gắn liền với hai đầu nắp. 9 Hai chê-ru-bim xòe rộng đôi cánh che phủ nắp thi ân. Mặt đối mặt, các chê-ru-bim cùng hướng vào nắp thi ân.
Đóng bàn để bánh cung hiến
10 Ông cũng đóng một cái bàn bằng gỗ si-tim: dài tám mươi tám cen-ti-mét, rộng bốn mươi bốn cen-ti-mét và cao sáu mươi sáu cen-ti-mét, 11 bọc bằng vàng ròng và chạy một đường viền bằng vàng chung quanh. 12 Ông cũng đóng nẹp chung quanh bàn cao chừng bốn ngón tay và chạy một đường viền vàng theo nẹp ấy. 13 Ông đúc bốn cái khoen vàng gắn vào bốn góc, chỗ có bốn chân bàn. 14 Các khoen gắn gần khung để xỏ các đòn khiêng. 15 Ông làm các đòn bằng gỗ si-tim bọc vàng để khiêng bàn đó. 16 Ông cũng lấy vàng ròng để làm các đồ dùng bày trên bàn như: khay, đĩa dâng hương, lọ và bát để làm lễ quán.
Làm chân đèn
17 Ông cũng làm chân đèn bằng vàng ròng; đế và thân của chân đèn được làm bằng vàng dát; đài đèn, nụ đèn, và cánh hoa đèn đều được gắn vào chân đèn. 18 Có sáu nhánh nứt ra hai bên chân đèn, ba nhánh bên nầy và ba nhánh bên kia. 19 Trong sáu nhánh nứt ra từ chân đèn đó, trên mỗi nhánh đều có ba cái đài đèn tạo thành hình hoa hạnh nhân với nụ và cánh hoa đèn. 20 Ngay trên chân đèn cũng có bốn đài đèn hình hoa hạnh nhân với nụ và cánh hoa đèn. 21 Trong sáu nhánh từ chân đèn nứt ra, cứ dưới mỗi hai nhánh thì gắn một nụ đèn. 22 Các nụ và nhánh của chân đèn đều được gắn với chân đèn; tất cả đều được làm bằng vàng ròng dát mỏng. 23 Ông cũng làm bảy ngọn đèn, kéo cắt tim đèn và khay đựng tàn bằng vàng ròng. 24 Ông dùng một ta-lâng vàng ròng để làm chân đèn và các dụng cụ khác.
Làm bàn thờ xông hương
25 Ông cũng đóng một bàn thờ xông hương bằng gỗ si-tim hình vuông, mỗi cạnh bốn mươi bốn cen-ti-mét và cao tám mươi tám cen-ti-mét; các sừng được gắn liền với bàn thờ. 26 Ông cũng bọc bàn thờ, mặt bàn thờ, bốn cạnh chung quanh, các sừng bằng vàng ròng và chạy một đường viền vàng chung quanh. 27 Dưới đường viền đó, ông gắn hai khoen bằng vàng ở hai bên bàn thờ để xỏ đòn khiêng. 28 Ông làm các đòn bằng gỗ si-tim bọc vàng.
Dầu thánh và hương thơm
29 Ông cũng pha chế dầu thánh để xức, và hương thơm nguyên chất theo phương thức pha chế nước hoa.
Bàn thờ dâng tế lễ thiêu
38 Ông cũng đóng bàn thờ dâng tế lễ thiêu bằng gỗ si-tim hình vuông, mỗi cạnh hai mét hai và cao một mét ba. 2 Ông làm các sừng gắn ở bốn góc bàn thờ; các sừng ấy hợp thành một khối với bàn thờ. Bàn thờ được bọc đồng. 3 Sau đó ông làm các dụng cụ của bàn thờ như các bình đựng tro, xẻng, chậu, nĩa, và lư hương. Tất cả đều bằng đồng. 4 Ông cũng làm cho bàn thờ một cái rá có lưới bằng đồng để dưới thành bàn thờ, khoảng nửa chiều cao của bàn thờ, 5 và đúc bốn cái khoen ở bốn góc rá đồng để xỏ đòn khiêng. 6 Ông làm các đòn khiêng bằng gỗ si-tim bọc đồng, 7 và xỏ đòn đó vào khoen ở hai bên bàn thờ để khiêng đi. Ông đóng bàn thờ rỗng bằng ván ghép lại.
Cái bồn bằng đồng
8 Ông dùng những tấm gương soi của các phụ nữ phục vụ tại cửa Lều Hội Kiến để làm một cái bồn rửa có chân bồn bằng đồng.
Hành lang của Đền Tạm
9 Ông cũng làm hành lang. Phía nam của hành lang có các tấm rèm làm bằng vải gai mịn, dài khoảng bốn mươi bốn mét, 10 với hai mươi cây trụ và hai mươi lỗ trụ bằng đồng; nhưng các móc trụ và thanh liên kết thì bằng bạc. 11 Phía bắc cũng có bốn mươi bốn mét rèm với hai mươi cây trụ và hai mươi lỗ trụ bằng đồng; nhưng các móc trụ và thanh liên kết thì bằng bạc. 12 Phía tây có hai mươi hai mét rèm với mười cây trụ và mười lỗ trụ bằng đồng; các móc trụ và thanh liên kết bằng bạc. 13 Phía trước, tức là phía đông, là hướng mặt trời mọc, cũng có hai mươi hai mét rèm; 14 các tấm rèm che bên nầy cửa hành lang dài sáu mét sáu với ba cây trụ và ba lỗ trụ; 15 bên kia cũng có sáu mét sáu rèm với ba cây trụ và ba lỗ trụ. 16 Tất cả các tấm rèm chung quanh hành lang đều bằng vải gai mịn; 17 các lỗ trụ đều bằng đồng nhưng móc trụ và thanh liên kết thì bằng bạc; các đầu trụ cũng bọc bạc. Tất cả các trụ của hành lang đều nối nhau nhờ các thanh liên kết bằng bạc. 18 Tấm màn nơi cửa hành lang được thêu mỹ thuật bằng sợi gai mịn, chỉ xanh, chỉ đỏ tía và đỏ thắm; màn dài tám mét tám, cao hai mét hai, tương xứng với các tấm rèm chung quanh hành lang. 19 Bốn cây trụ và bốn lỗ trụ bằng đồng, móc trụ bằng bạc, đầu trụ bọc bạc, và những thanh liên kết cũng bằng bạc. 20 Các cây cọc của Đền Tạm và hành lang chung quanh đều bằng đồng.
Kết toán vật dụng của Đền Tạm
21 Đây là tổng số các vật liệu dùng cho Đền Tạm, là Đền Tạm Chứng Ước, được kết toán theo lệnh Môi-se truyền cho những người Lê-vi, dưới sự hướng dẫn của Y-tha-ma, con trai của thầy tế lễ A-rôn. 22 Bết-sa-lê-ên, con trai U-ri, cháu Hu-rơ, thuộc bộ tộc Giu-đa, làm tất cả những gì Đức Giê-hô-va đã truyền dạy Môi-se, 23 cùng với người phụ tá Ô-hô-li-áp, con trai A-hi-sa-mạc, thuộc bộ tộc Đan, là thợ chạm, người thiết kế, thợ thêu sợi gai mịn với chỉ xanh, chỉ đỏ tía và đỏ thắm.
24 Tổng số vàng đã dâng được dùng vào việc xây dựng Nơi Thánh khoảng một nghìn ký, theo đơn vị đo lường của Nơi Thánh. 25 Tổng số bạc của những người được kể vào hội chúng là ba nghìn bốn trăm ba mươi ký, theo đơn vị đo lường của Nơi Thánh. 26 Tất cả những người thuộc diện kiểm tra dân số từ hai mươi tuổi trở lên, tức là sáu trăm lẻ ba nghìn năm trăm năm mươi người, mỗi đầu người nộp sáu gam, theo đơn vị đo lường của Nơi Thánh. 27 Ba nghìn bốn trăm ký bạc dùng để đúc các lỗ trụ của Đền Thánh và các lỗ trụ màn; ba nghìn bốn trăm ký cho một trăm lỗ trụ, tức ba mươi bốn ký cho mỗi lỗ trụ. 28 Ba mươi ký còn lại thì dùng làm móc trụ, bọc các đầu trụ và làm thanh liên kết cho các trụ. 29 Tổng số đồng được đóng góp là hai ngàn bốn trăm ký. 30 Đồng đó được dùng làm lỗ trụ của cửa Lều Hội Kiến, bàn thờ bằng đồng, rá đồng và các dụng cụ của bàn thờ, 31 các lỗ trụ chung quanh hành lang, các lỗ trụ cửa hành lang, các cọc của Đền Tạm, và các cọc chung quanh hành lang.
Bình luận
Phục vụ Chúa tại nơi làm việc
Bạn không nhất thiết phải nghỉ việc để hết lòng phục vụ Đức Chúa Trời. Trong cuộc đời của Bết-sa-lê-ên, chúng ta thấy được tấm gương về một người đã tận dụng tối đa cuộc sống của mình bằng cách phục vụ Đức Chúa Trời ngay tại nơi làm việc. Công việc hàng ngày ông làm là công tác chính yếu của ông.
Đức Chúa Trời đã đổ đầy Thần của Ngài cho dân sự tại nơi làm việc: "Ta đã cho người đầy dẫy Thần của Đức Chúa Trời cùng với sự khéo tay, thông minh và hiểu biết trong lãnh vực thủ công mỹ nghệ để thiết kế và chế tạo các vật... thuộc lãnh vực thủ công mỹ nghệ" (31:3–5).
Bết-sa-lê-ên là một nhà điêu khắc. Ông được Đức Chúa Trời chọn để xây đền tạm (37:1; xem thêm 31:1–5). Ông đã đáp lại lời kêu gọi của Ngài và "làm tất cả những gì Đức Giê-hô-va đã truyền dạy Môi-se" (38:22). Ông làm việc cùng một nhóm, trong đó có nhà thiết kế tên là Ô-hô-li-áp (c.23), và họ đã hoàn thành được những điều vĩ đại cho Chúa. Bí quyết thành công của Bết-sa-lê-ên đó là nhờ vào sự đầy dẫy "Thần của Đức Chúa Trời" (31:3; 35:31).
Có những người không được đầy dẫy Thánh Linh nhưng vẫn có thể trở thành một nhạc sĩ, nhà văn hay nghệ sĩ tài năng. Thế nhưng, khi họ được đổ đầy Thánh Linh của Đức Chúa Trời để làm những công tác này, thì việc làm của họ thường sẽ mang một chiều hướng hoàn toàn mới. Nó có tác động thuộc linh nhiều hơn. Điều này có thể đúng ngay cả khi tài năng bẩm sinh của người nhạc sĩ hay nghệ sĩ đó không phải quá nổi trội. Có nhiều tấm lòng sẽ được động chạm và nhiều cuộc đời sẽ được thay đổi. Chắc chắn điều như thế đã xảy đến qua Bết-sa-lê-ên.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, con biết ơn Chúa vì những con người phục vụ Ngài với trọn cả tấm lòng - bằng khả năng nghệ thuật của họ, hay trong lĩnh vực y tế, giáo dục, kinh doanh, buôn bán, pháp luật, ngân hàng và những lĩnh vực công việc khác nữa. Nguyện xin chúng con được đầy dẫy Thánh Linh Ngài, giống như Bết-sa-lê-ên, để làm mọi điều Ngài truyền cho chúng con. Xin giúp con tận dụng được tối đa cuộc đời của mình.
Pippa chia sẻ
Châm Ngôn 6:10-11
"Ngủ một chút, chợp mắt một chút, khoanh tay nằm nghỉ một chút..."
Tôi nghĩ điều này nghe có vẻ rất ổn. Nhưng câu 11 lại giống như một cú sốc vậy:
"thì sự nghèo khổ sẽ đến với ngươi như kẻ trộm cắp..."
Tôi không muốn bị bắt quả tang khi đang chợp mắt, dù điều đó thật sự quá cám dỗ, để rồi bỏ lỡ tất cả những điều Chúa sắm sẵn cho tôi.
App
Tải xuống ứng dụng Kinh Thánh Trong Một Năm dành cho thiết bị iOS hoặc Android và đọc theo mỗi ngày.
Đăng ký ngay bây giờ để nhận Kinh thánh trong một năm trong hộp thư đến của bạn mỗi sáng. Bạn sẽ nhận được một email mỗi ngày.
Book
Kinh thánh trong một năm bình luận có sẵn như là một cuốn sách.
- Mua từ Cửa hàng Alpha
- [Mua từ Nhà sách CLC](https://clcbookshops.com/product/bible-in-one-year-the-a-commentary-by-nicky-gumbel-hard-cover-gumbel-nicky-hodder-stoughton- 9781473677067)
Tham khảo
The One Year® là nhãn hiệu đã đăng ký của Tyndale House Publishers. Được sử dụng bởi sự cho phép.
Trừ khi có quy định khác, các trích dẫn Kinh thánh được lấy từ Kinh thánh, Phiên bản quốc tế mới được Anh hóa, Bản quyền © 1979, 1984, 2011 Biblica, trước đây là Hiệp hội Kinh thánh Quốc tế. Được sử dụng dưới sự cho phép của Hodder & Stoughton Publishers, một công ty của Hachette UK. Đã đăng ký Bản quyền. 'NIV' là nhãn hiệu đã đăng ký của Biblica. Nhãn hiệu Vương quốc Anh số 1448790.
Thánh Kinh được đánh dấu (MSG) lấy từ The Message. Bản quyền © 1993, 1994, 1995, 1996, 2000, 2001, 2002. Được sử dụng dưới sự cho phép của NavPress Publishing Group.