Đức Chúa Trời công bình và nhân từ
Giới thiệu
Các tiêu đề trên phương tiện truyền thông thường bày tỏ sự phẫn nộ đối với các thẩm phán 'mềm mỏng với tội phạm' và không đưa ra hình phạt thích đáng cho hành vi phạm tội đã gây ra.
Khi tôi còn là luật sư, tôi nhận thấy rằng nghề luật không tôn trọng những thẩm phán được coi là quá khoan dung. Chúng tôi mong các thẩm phán thực thi công lý. Chúng tôi không mong đợi sự thương xót từ họ.
Mặt khác, chúng ta mong đợi sự thương xót trong các mối quan hệ cá nhân của chúng ta. Cha mẹ yêu thương sẽ thương xót con họ. Chúng ta mong bạn bè hãy thương xót lẫn nhau. Công lý và lòng thương xót thường không đi đôi với nhau. Con người có xu hướng xem chúng như những lựa chọn thay thế, mong đợi công lý hoặc lòng thương xót, không phải cả hai cùng một lúc.
Tuy nhiên, Đức Chúa Trời vừa là Đức Chúa Trời phán xét công bình, và cũng vừa là Đức Chúa Trời của lòng thương xót. Làm thế nào Chúa có thể kết hợp hai đặc điểm dường như trái ngược nhau này? Câu trả lời là sự hy sinh của Chúa Giê-su đã giúp Đức Chúa Trời có thể kết hợp cả công lý và lòng thương xót.
Khi tôi gặp gỡ Chúa Giê-su lần đầu tiên, ví dụ sau đây đã giúp tôi hiểu những gì Chúa Giê-su đã dành được cho bạn và cho tôi trên thập tự giá: Hai người đã cùng trải qua thời học sinh và họ tiếp tục vào đại học cùng nhau và phát triển một tình bạn thân thiết. Cuộc sống cứ thế trôi đi, họ đường ai nấy đi và mất liên lạc. Một người tiếp tục học lên cao và trở thành thẩm phán, trong khi cuộc sống của người kia đi xuống và cuối cùng anh ta trở thành tội phạm. Một ngày nọ, tên tội phạm xuất hiện trước quan tòa. Anh ta thừa nhận tội ác mà mình đã gây ra. Vị thẩm phán đã nhận ra người bạn cũ của mình và đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan mà Chúa cũng đã phải đối mặt.
Ông ấy là một thẩm phán nên ông ấy phải xử cách công bằng; ông không thể để người bạn cũ của ông được tha tội dễ dàng được. Mặt khác, ông muốn bày tỏ sự thương xót, vì ông ấy yêu quý bạn mình. Vì vậy, vị thẩm phán đã phạt người bạn kia hình phạt thích đáng cho hành vi phạm tội của anh ta. Đó chính là công lý. Sau đó, ông rời khỏi vị trí thẩm phán của mình, viết một tấm séc bằng với số tiền phạt. Ông đưa nó cho người bạn của mình, nói rằng ông sẽ trả tiền phạt cho bạn của ông. Đó là một hành động của lòng nhân từ, tình yêu và sự hy sinh.
Ví dụ đó không phải là ví dụ bao quát cho tất cả. Hoàn cảnh của chúng ta còn tồi tệ hơn - hình phạt mà chúng ta đáng ra phải đối mặt đó là sự chết. Nhưng chúng ta có mối quan hệ khăng khít với Chúa - Cha của bạn trên trời yêu bạn hơn bất kỳ bậc cha mẹ nào trên đất yêu con của họ. Và cái giá phải trả lớn hơn. Điều đó khiến Đức Chúa Trời phải trả giá đắt hơn nhiều so với tiền bạc - Ngài đã tự mình đến, trong thân phận của Chúa Giê-su, và trả giá cho của tội lỗi của con người.
Chúa không mềm lòng trước tội ác. Đức Chúa Trời công bình phán xét chúng ta bởi vì chúng ta có tội. Sau đó, bằng lòng nhân từ và tình yêu thương của Ngài, Ngài đã xuống trong thân vị của Con Ngài, Chúa Giê-su Christ, và nhận lấy hình phạt thay chúng ta. Qua sự hy sinh của Chúa Giê-su trên thập tự giá, Đức Chúa Trời bày tỏ bản tính vừa công bình vừa nhân từ.
Thi Thiên 9:13-20
13 Lạy Đức Giê-hô-va, xin thương xót con!
Xin đoái xem nỗi đau khổ do kẻ thù con gây nên;
Ngài là Đấng đem con lên khỏi cổng sự chết,
14 Để con thuật lại mọi lời ca ngợi Chúa;
Tại cổng thành Con Gái Si-ôn,
Con vui mừng về sự giải cứu của Ngài.
15 Các dân đã sa xuống hố mà chúng đã đào;
Chân của chúng mắc vào lưới mà chúng đã giăng.
16 Đức Giê-hô-va tự bày tỏ chính Ngài qua công lý;
Kẻ ác bị mắc bẫy do chính tay chúng đã gài.
17 Kẻ ác phải đi vào âm phủ,
Tất cả các dân quên Đức Chúa Trời cũng vậy.
18 Người thiếu thốn sẽ không bị bỏ quên luôn luôn,
Và kẻ khốn cùng chẳng thất vọng mãi mãi.
19 Lạy Đức Giê-hô-va, xin trỗi dậy! Đừng để người phàm thắng thế;
Nguyện các nước bị phán xét trước mặt Ngài.
20 Lạy Đức Giê-hô-va, xin khiến chúng sợ hãi.
Nguyện các dân biết rằng họ chỉ là người phàm.
Bình luận
Đáp lại sự công bình của Chúa
Đa-vít biết rằng Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời công bình: ‘Đức Giê-hô-va tự bày tỏ chính Ngài qua công lý’ (c.16). Ông cũng khóc để xin lòng thương xót của Chúa: ‘ Lạy Đức Giê-hô-va, xin thương xót con! … Con vui mừng về sự giải cứu của Ngài’ (cc.13–14).
Trong đoạn Thi thiên này, lòng khao khát về công lý và sự thương xót kết hợp với nhau. Đa-vít cầu nguyện rằng Đức Chúa Trời sẽ thương xót ông bằng cách thi hành sự phán xét đối với kẻ thù của ông: ‘Lạy Đức Giê-hô-va, xin trỗi dậy!... Nguyện các nước bị phán xét trước mặt Ngài’ (c.19).
Đôi khi chúng ta nghĩ về công lý theo cách tiêu cực, chủ yếu là về hình phạt. Nhưng công bình cũng mang ý nghĩa rất tích cực. Trong tiếng Do Thái, từ công lý (mishpat) mang ý nghĩa đặt mọi thứ đúng đắn. Chính vì sự công bình của Đức Chúa Trời mà Đa-vít có thể tin chắc rằng ‘Người thiếu thốn sẽ không bị bỏ quên luôn luôn, Và kẻ khốn cùng chẳng thất vọng mãi mãi’ (c.18).
Cầu nguyện
Con cảm ơn Chúa vì Ngài là Đấng công bình. Con cảm ơn Chúa rằng một ngày nào đó sự công bình sẽ đến với tất cả những người trên thế giới đang phải đối mặt với sự bất công. Con cảm ơn Chúa vì một ngày sự công bình sẽ đến với cả người nghèo và người bị áp bức.
Ma-thi-ơ 12:1-21
Làm việc trong ngày sa-bát
12Lúc ấy, vào ngày sa-bát, Đức Chúa Jêsus đi ngang qua cánh đồng lúa mì, các môn đồ Ngài đói nên bắt đầu ngắt bông lúa mà ăn. 2 Những người Pha-ri-si thấy vậy, nói với Ngài: “Xem kìa, các môn đồ Thầy làm điều không được phép làm trong ngày sa-bát.”
3 Nhưng Ngài đáp: “Các ngươi chưa đọc về việc Đa-vít đã làm, khi người cùng những người đi theo bị đói sao? 4 Người đã vào nhà Đức Chúa Trời ăn bánh cung hiến, loại bánh mà người và những kẻ đi theo không được phép ăn, chỉ dành riêng cho các thầy tế lễ. 5 Hay là các ngươi chưa đọc trong sách luật rằng, vào ngày sa-bát, các thầy tế lễ trong đền thờ vi phạm luật ngày sa-bát mà vẫn không mắc tội đó sao? 6 Nhưng Ta nói với các ngươi, tại đây, có một Đấng cao trọng hơn cả đền thờ. 7 Nếu các ngươi hiểu được ý nghĩa của câu nầy: ‘Ta muốn lòng thương xót, chứ không phải sinh tế’ thì các ngươi đã không lên án người vô tội; 8 vì Con Người là Chúa của ngày sa-bát.”
9 Đức Chúa Jêsus rời nơi đó, đi vào nhà hội. 10 Tại đó, có người teo một bàn tay. Họ hỏi Ngài rằng: “Trong ngày sa-bát có được phép chữa bệnh không?” Họ hỏi thế, để có thể tố cáo Ngài.
11 Ngài phán với họ: “Ai trong các ngươi có một con chiên bị ngã xuống hố trong ngày sa-bát mà lại không kéo nó lên sao? 12 Huống chi con người còn quý hơn chiên biết chừng nào! Vậy, trong ngày sa-bát được phép làm điều lành.”
13 Rồi Ngài phán với người teo tay: “Hãy giơ tay ra!” Người ấy giơ tay ra, thì tay được lành như tay kia. 14 Những người Pha-ri-si đi ra, bàn mưu chống Ngài và tìm cách giết Ngài.
Người đầy tớ được Chúa chọn
15 Nhưng Đức Chúa Jêsus biết điều ấy, nên lánh khỏi chỗ đó. Có nhiều người theo Ngài, và Ngài chữa lành tất cả. 16 Ngài truyền dặn họ đừng tiết lộ cho ai biết Ngài. 17 Như vậy, để lời nhà tiên tri Ê-sai đã nói được ứng nghiệm:
18 “Nầy là đầy tớ Ta đã chọn,
Người mà Ta yêu quý, đẹp lòng Ta hoàn toàn.
Ta sẽ ban Thánh Linh Ta ngự trên Người,
Người sẽ rao truyền công lý cho dân ngoại.
19 Người sẽ không cãi vã, chẳng gào la,
Không ai nghe tiếng Người ngoài phố.
20 Người sẽ chẳng bẻ cây sậy đã giập,
Không tắt ngọn đèn gần tàn.
Cho đến chừng Người đưa công lý đến chiến thắng
21 Và các dân ngoại đặt hi vọng nơi danh Người.”
Bình luận
Hãy đón nhận lòng thương xót của Chúa Giê-xu
Đôi khi chúng ta gửi bưu kiện có dán dòng chữ ‘Dễ vỡ - Xin nhẹ tay’. Bạn đã bao giờ cảm thấy cần một nhãn dán kiểu này cho mình? Chúa Giê-su ở cùng bạn khi bạn cảm thấy như vậy.
Chúa Giê-su hoàn toàn bác bỏ chủ nghĩa hợp pháp của những người Pha-ri-si (câu 1–12), trích dẫn và ứng nghiệm lời tiên tri của Ô-sê: ‘Ta muốn lòng thương xót chứ không phải hy sinh’ (Ma-thi-ơ 12: 7; Ô-sê 6: 6). Chủ nghĩa công lý và chủ nghĩa pháp lý không giống nhau - thực sự chúng có thể đối lập nhau. Chúa Giê-su phá bỏ các luật lệ theo luật pháp bằng cách chữa lành một người đàn ông vào ngày Sa-bát, một hành động vô cùng thương xót, yêu thương và từ bi (Ma-thi-ơ 12: 13–14).
Chúa Giê-su kết hợp công lý và lòng thương xót. Ngài đã thực hiện tất cả những lời hứa trong Cựu Ước về việc Đức Chúa Trời mang lại công lý cho các quốc gia. Ở đây Ma-thi-ơ trích dẫn lời tiên tri của Ê-sai (Ê-sai 42: 1–4) mà Chúa Giê-su đã ứng nghiệm (Ma-thi-ơ 12: 18–21). Ông sẽ mang lại ‘công lý cho các quốc gia’ (c.18c) và dẫn dắt ‘công lý đến chiến thắng’ (c.20c).
Tuy nhiên, Ngài tràn đầy lòng nhân từ, tình yêu thương và lòng trắc ẩn: ‘Cây sậy thâm tím sẽ không bẻ gãy, và ngọn bấc âm ỉ sẽ không dập tắt được’ (c.20). Trong cuộc sống, có những lúc chúng ta mong manh về thể chất, tình cảm hoặc tâm hồn - như một ‘cây sậy bầm dập’ hay ‘một ngọn bấc cháy âm ỉ’.
Chúa Giê-su tiếp tục cho chúng ta thấy lòng thương xót, tình yêu và lòng trắc ẩn khi chúng ta yếu đuối và mong manh. Khi bạn yếu đuối, Chúa Giê-su đối xử với bạn một cách ân cần.
Chúa Giê-su đang trích dẫn từ một trong những ‘bài hát đầy tớ’ trong Ê-sai 40–55. Những bài hát này đều nói về một người đầy tớ đau khổ, người sẽ hy sinh mạng sống của mình để được tha tội (Ê-sai 52: 13–53: 12).
Trong những ‘bài hát đầy tớ’ này, lòng thương xót và công lý của Đức Chúa Trời kết hợp với nhau. Thế giới đã ổn định: bất công và áp bức chấm dứt, những người nghèo khổ và tan nát được giải phóng. Tuy nhiên, chính Đức Chúa Trời là Đấng làm của lễ, Đấng gánh chịu hình phạt và hậu quả của tội lỗi chúng ta. Thay vì bị công lý của Đức Chúa Trời đè bẹp, bạn được giải thoát nhờ công lý đó. Tại thập tự giá, công lý và lòng thương xót gặp nhau.
Cầu nguyện
Con cảm ơn Ngài, Giê-su, vì Ngài đến gánh thay nỗi đau khổ của chúng con. Con cảm ơn Chúa vì Ngài đem đến cả sự công bình và lòng thương xót bằng sự hi sinh chính mạng sống mình trên thập tự giá.
Sáng thế ký 31:1-55
Gia-cốp rời khỏi nhà La-ban
31 Gia-cốp nghe được lời của các con trai La-ban nói với nhau: “Gia-cốp đã sang đoạt tài sản của cha chúng ta, và nhờ tài sản đó mà trở nên giàu có.” 2 Gia-cốp cũng để ý đến nét mặt La-ban và thấy thái độ của ông đối với mình không còn như trước nữa.
3 Đức Giê-hô-va phán với Gia-cốp: “Hãy trở về nơi quê cha đất tổ và họ hàng của con. Ta sẽ ở với con.”
4 Gia-cốp sai người gọi Ra-chên và Lê-a ra đồng, nơi ông đang chăn bầy, 5 và nói: “Tôi thấy thái độ của cha các bà đối với tôi không còn như trước nữa; nhưng Đức Chúa Trời của cha tôi vẫn ở với tôi. 6 Chính các bà cũng biết rằng tôi đã dốc sức phục vụ cha các bà 7 mà ông ấy lại lường gạt tôi, và thay đổi tiền công của tôi đến mười lần. Nhưng Đức Chúa Trời không cho phép ông ấy làm hại tôi. 8 Nếu ông nói: ‘Những con vật có đốm sẽ là tiền công của con’, thì cả bầy đều đẻ con có đốm. Còn nếu ông nói: ‘Những con vật có sọc sẽ là tiền công của con’, thì cả bầy đều đẻ con có sọc. 9 Đức Chúa Trời đã lấy bầy gia súc của cha các bà mà ban cho tôi như vậy đó. 10 Trong mùa giao phối của gia súc, tôi nằm chiêm bao thấy mình ngước mắt nhìn các dê đực giao phối trong bầy đều có sọc, có vằn và có đốm.
11 Thiên sứ của Đức Chúa Trời gọi tôi trong chiêm bao: ‘Gia-cốp!’ Tôi thưa: ‘Có con đây!’ 12 Thiên sứ nói: ‘Hãy ngước mắt lên mà nhìn, tất cả các dê đực đang giao phối đều có sọc, có vằn và có đốm, vì Ta đã thấy cách La-ban đối xử với con rồi. 13 Ta là Đức Chúa Trời tại Bê-tên, nơi con đã đổ dầu trên trụ đá và khấn nguyện với Ta. Bây giờ, con hãy đứng dậy, rời khỏi xứ nầy và trở về quê cha đất tổ của mình.’”
14 Ra-chên và Lê-a đáp: “Chúng tôi nào có gia tài hay sản nghiệp gì trong nhà cha chúng tôi nữa đâu. 15 Chẳng phải chúng tôi đã bị cha xem như người dưng đó sao? Vì ông đã gả bán chúng tôi và tiêu sạch cả tiền bạc bán gả chúng tôi. 16 Tất cả tài sản mà Đức Chúa Trời lấy từ cha chúng tôi đương nhiên thuộc về chúng ta và con cái chúng ta. Vậy bây giờ, ông cứ làm theo mọi điều Đức Chúa Trời đã phán dạy.”
17 Gia-cốp liền đứng dậy, đỡ vợ và con lên lạc đà, 18 dẫn theo tất cả súc vật và mọi tài sản mình có, tức là bầy súc vật mà ông đã gây dựng được ở Pha-đan A-ram, để trở về với Y-sác, cha mình, ở Ca-na-an.
19 Nhân lúc La-ban đi hớt lông chiên, Ra-chên lấy trộm các tượng thần trong nhà cha mình. 20 Gia-cốp đánh lừa La-ban, người A-ram, không cho ông biết ý định bỏ trốn của mình. 21 Vậy, ông trốn đi, đem theo tất cả những gì mình có, bắt đầu vượt qua sông và hướng thẳng về vùng đồi núi Ga-la-át.
La-ban đuổi theo Gia-cốp
22 Đến ngày thứ ba, khi được báo tin Gia-cốp đã trốn đi, 23 La-ban đem bà con anh em mình đuổi theo Gia-cốp suốt bảy ngày, và bắt kịp tại núi Ga-la-át. 24 Nhưng ban đêm, trong giấc chiêm bao, Đức Chúa Trời hiện đến với La-ban, người A-ram, và phán với ông: “Dù lành hay dữ, hãy thận trọng, đừng nặng lời với Gia-cốp.”
25 Khi La-ban bắt kịp Gia-cốp thì Gia-cốp đã đóng trại trên núi; La-ban và bà con anh em mình cũng đóng trại trên núi. 26 La-ban nói với Gia-cốp: “Con đã làm gì vậy? Tại sao con đánh lừa cha và dẫn các con gái của cha đi như tù binh vậy? 27 Tại sao con lén lút trốn đi và lừa gạt cậu? Sao không cho cha biết để cha tiễn các con đi cách vui vẻ trong tiếng hát, tiếng đàn và tiếng trống? 28 Sao con không để cho cha hôn từ biệt con cháu của cha? Con đã hành động thật dại dột! 29 Cha thừa sức để làm hại con, nhưng đêm qua Đức Chúa Trời của tổ phụ con đã phán với cha rằng: ‘Dù lành hay dữ, hãy thận trọng, đừng nặng lời với Gia-cốp.’ 30 Bây giờ, vì quá mong muốn trở về quê cha đất tổ mà con đã ra đi, nhưng tại sao con lại lấy trộm các tượng thần của cha?”
31 Gia-cốp nói với La-ban: “Vì con sợ cha sẽ bắt hai người con gái của cha lại. 32 Còn nếu cha tìm thấy các tượng thần của cha nơi ai thì người đó sẽ phải chết. Bây giờ, trước sự chứng kiến của bà con chúng ta, cha cứ lục soát hành lý của con, vật gì thuộc về cha, xin cha lấy lại.” Gia-cốp thực tình không biết rằng Ra-chên đã lấy trộm các tượng thần đó.
33 Vậy, La-ban vào trại Gia-cốp, trại Lê-a, trại hai nữ tì, nhưng chẳng tìm được gì cả. Từ trại Lê-a ông bước sang trại Ra-chên. 34 Ra-chên đã lấy các tượng thần đó và giấu dưới bành lạc đà rồi ngồi lên trên. La-ban lục soát khắp trại nhưng chẳng thấy các tượng thần.
35 Ra-chên thưa với cha: “Vì trong con có việc riêng của phụ nữ, con không tiện đứng dậy trước mặt cha, xin cha đừng giận con.” La-ban lục lọi nhưng chẳng thấy các tượng thần đâu cả.
36 Bấy giờ Gia-cốp nổi giận và trách La-ban: “Con có tội gì, có lỗi gì mà cha hằm hằm truy đuổi con như vậy! 37 Cha đã lục soát tất cả hành lý của con, cha có tìm được vật gì thuộc về nhà cha không? Cha cứ đem tang vật đó ra trước mặt anh em bà con hai bên, để họ phân xử cho chúng ta.
38 Suốt hai mươi năm con ở với cha, chiên và dê của cha không hề bị sẩy thai, và con chẳng bao giờ ăn thịt chiên đực trong bầy của cha. 39 Con cũng chưa hề đem về cho cha một con vật nào bị thú rừng cắn xé; nếu có thì chính con đã bồi thường cho cha rồi. Cha còn đòi luôn những con bị mất cắp ban ngày hay bị bắt trộm ban đêm. 40 Ban ngày con bị nắng thiêu, ban đêm chịu lạnh lẽo, ngủ không an giấc. 41 Hai mươi năm con ở trong nhà cha là thế đấy. Con phải giúp việc cho cha mười bốn năm để được hai cô con gái của cha, sáu năm để có được bầy súc vật từ bầy của cha, mà cha còn thay đổi tiền công của con đến mười lần. 42 Nếu Đức Chúa Trời của tổ phụ con, là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, là Đấng mà Y-sác kính sợ, không phù hộ con, chắc bây giờ cha đã đuổi con đi với hai bàn tay trắng. Đức Chúa Trời đã nhìn thấy nỗi đớn đau và công lao của con nên đêm qua Ngài đã phân xử rồi.”
43 La-ban trả lời Gia-cốp: “Các cô gái nầy là con gái của cha, các đứa trẻ nầy là cháu của cha, các bầy súc vật nầy là bầy của cha. Tất cả những gì con thấy đều là của cha. Nhưng hôm nay cha có thể làm gì được với các con gái và các cháu của cha đây? 44 Bây giờ, hãy đến, chúng ta cùng kết ước với nhau để làm bằng chứng giữa cha và con.”
45 Gia-cốp lấy một tảng đá, dựng lên làm trụ; 46 rồi bảo anh em họ hàng mình: “Hãy gom đá lại.” Họ gom đá lại, chất thành một đống, và ngồi ăn bên đống đá. 47 La-ban đặt tên đống đá đó là Y-ê-ga Sa-ha-đu-ta; còn Gia-cốp gọi là Ga-lét.
48 La-ban nói: “Hôm nay đống đá nầy làm chứng giữa cha và con.” Vì thế, người đặt tên nó là Ga-lét. 49 Đống đá nầy cũng được gọi là Mích-pa, vì La-ban có nói: “Cầu xin Đức Giê-hô-va canh giữ cha và con khi chúng ta xa cách nhau. 50 Nếu con bạc đãi các con gái của cha, hoặc ngoài các con gái của cha ra con còn cưới vợ khác, thì hãy nhớ rằng, dù không có người nào xem xét chúng ta, Đức Chúa Trời vẫn là nhân chứng giữa cha và con.”
51 La-ban còn nói với Gia-cốp: “Nầy là đống đá, nầy là trụ đá mà cha đã dựng lên giữa cha và con. 52 Đống đá nầy và trụ đá nầy làm chứng rằng cha không được vượt quá nơi nầy để đến chỗ con, và con cũng không được vượt quá nơi nầy để đến chỗ cha, với ý đồ xấu. 53 Cầu xin Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham và Đức Chúa Trời của Na-cô phân xử giữa chúng ta!”
Gia-cốp nhân danh Đấng mà cha mình là Y-sác kính sợ mà thề, 54 rồi dâng sinh tế tại trên núi, và mời các anh em bà con dùng bữa. Sau khi dùng bữa, họ nghỉ qua đêm trên núi.
55 Hôm sau, La-ban dậy sớm, hôn từ biệt và chúc phước cho con cháu, rồi lên đường trở về nhà.
Bình luận
Vui mừng trong sinh tế của Đức Chúa Trời
Bạn đã bao giờ trải qua những điều này: nhận được lời hứa thăng chức nhưng không bao giờ thành sự thật, hoặc lãng phí nhiều giờ làm việc, thậm chí làm đến rất muộn để hoàn thành một số công việc mà không được ghi nhận? Bạn đã bao giờ là nạn nhân của sự đố kỵ, buộc tội sai hoặc hoàn toàn bị lừa dối chưa?
Rất nhiều điều trong phân đoạn này giống với cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Khi rơi vào những tình huống thất vọng và đau đớn diễn ra hàng ngày trong đời sống của chúng ta, thật yên tâm khi biết rằng Chúa luôn luôn có lời hứa đảm bảo cho chúng ta.
Ở phân đoạn này chúng ta thấy một sự rạn nứt nghiêm trọng trong gia đình. Có lẽ La-ban đã coi những việc con rể của mình làm là điều hiển nhiên. Chắc chắn Gia-cốp cảm thấy lòng tốt của mình đã bị lạm dụng. Ông cảm thấy 'thái độ của Laban đối với mình không còn như trước nữa' (c. 2). Ông đã cống hiến 100% sức lực cho công việc - ông đã làm việc với tất cả sức lực của mình: "Chính các bà cũng biết rằng tôi đã dốc sức phục vụ cha các bà" (c.6, VIE2010).
Điều kiện để Gia-cốp được nhận vào nhà La-ban rất khó khăn. Bố vợ ông từng là một ông chủ khá hà khắc. Ông ta đã bắt Gia-cốp phải bồi thường cho bất kỳ tổn thất nào xảy ra do tai nạn hoặc bị trộm cắp (c.39). Điều kiện làm việc của ông rất không hề dễ chịu chút nào (c.40).
Hơn nữa, Gia-cốp còn bị lường gạt. Thay vì tăng lương, La-ban dường như đã giảm tiền lương của Gia-cốp xuống mười lần (c.7). Ra-chên và Lê-a cũng cảm thấy rất mệt mỏi. Họ đã bị bán cho Gia-cốp và sau đó nhìn cha họ ghen tị với thành công của chính chồng mình (câu.14–16).
Có thể hiểu được rằng tất cả đều cảm thấy căm phẫn La-ban. Tuy nhiên, phản ứng của họ không được khéo léo cho lắm. Tất cả đều bỏ trốn khi La-ban đi làm. Họ không cho ông cơ hội để từ biệt con cháu (cc.26,28). Hơn hết, vì một lý do khó hiểu nào đó, Rachel đã ăn cắp của cha mình mà không nói với chồng.
Bất chấp tất cả những điều này, Đức Chúa Trời vẫn ban phước cho Gia-cốp: ‘Nhưng Đức Chúa Trời không cho phép ông ấy làm hại tôi” (c.7,VIE2010). Gia-cốp trở nên thịnh vượng hơn La-ban. Thực ra Đức Chúa Trời đã kêu gọi Gia-cốp trở về nhà với Y-sác và hứa với ông rằng ‘Ta sẽ ở với con’ (c.3). Mặc dù Gia-cốp đã làm đúng việc cần làm, nhưng cách làm lại không đúng. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã giúp Gia-cốp bằng cách nói chuyện với La-ban trong một giấc chiêm bao (c.24). Nếu không vì Chúa giúp thì Gia-cốp có thể đã bị đuổi đi tay không rồi (c.42).
Cuối cùng, họ đã thương lượng để đưa ra hướng giải quyết thỏa đáng. Ở giữa phân đoạn này, chúng ta thấy những gợi ý báo trước về những gì sắp xảy đến. Cả Gia-cốp và La-ban đều trông cậy vào Đức Chúa Trời để được phân xử công bằng (c.53). Sau đó dâng sinh tế tạ ơn (c.54).
Khi họ tìm kiếm sự công bình của Đức Chúa Trời và dâng sinh tế, chúng ta một lần nữa được nhắc nhở về thập tự giá, nơi công lý và lòng thương xót của Đức Chúa Trời kết hợp với nhau.
Cầu nguyện
Cha ơi, con cảm ơn vì Cha là Đấng công bình và nhân từ. Cảm ơn Đức Chúa Trời vì sự hy sinh của Chúa Giê-xu. Cảm ơn Chúa vì trong những lúc bất công, con có thể tìm đến Chúa để được bảo vệ và thương xót. Xin giúp con có lòng thương xót như Chúa thương xót con.
Pippa chia sẻ
Sáng thế ký 31:32
Tôi tự hỏi Ra-chên đang suy tính điều gì gì mà lại lấy trộm các tượng thần trong nhà cha mình? Còn La-ban đang muốn làm gì khi ngay từ đầu trong nhà ông đã có các tượng thần?
Rachel đã ăn cắp, nói dối và làm mất uy tín của cha mình… Không có gì lạ khi Đức Chúa Trời ban cho chúng ta Mười Điều Răn!
App
Tải xuống ứng dụng Kinh Thánh Trong Một Năm dành cho thiết bị iOS hoặc Android và đọc theo mỗi ngày.
Đăng ký ngay bây giờ để nhận Kinh thánh trong một năm trong hộp thư đến của bạn mỗi sáng. Bạn sẽ nhận được một email mỗi ngày.
Book
Kinh thánh trong một năm bình luận có sẵn như là một cuốn sách.
- Mua từ Cửa hàng Alpha
- [Mua từ Nhà sách CLC](https://clcbookshops.com/product/bible-in-one-year-the-a-commentary-by-nicky-gumbel-hard-cover-gumbel-nicky-hodder-stoughton- 9781473677067)
Tham khảo
The One Year® is a registered trademark of Tyndale House Publishers. Used by permission.
Joyce Meyer, Love Out Loud (Hodder & Stoughton, 2011)
Unless otherwise stated, Scripture quotations taken from the Holy Bible, New International Version Anglicised, Copyright © 1979, 1984, 2011 Biblica, formerly International Bible Society. Used by permission of Hodder & Stoughton Publishers, an Hachette UK company. All rights reserved. ‘NIV’ is a registered trademark of Biblica. UK trademark number 1448790.
Scripture marked (MSG) taken from The Message. Copyright © 1993, 1994, 1995, 1996, 2000, 2001, 2002. Used by permission of NavPress Publishing Group.