Làm thế nào để trở thành một công dân tốt
Giới thiệu
Các chính trị gia: chúng ta đối xử với họ như thế nào? Chính phủ và hội đồng địa phương: chúng ta xem họ là người như thế nào? Thuế: chúng ta có thực sự cần phải trả chúng không? Còn những chế độ độc ác thì sao? Nếu bạn sống dưới thời Hít-le hay Stalin, bạn có phải tuân theo chúng không?
'Hãy là một công dân tốt', sứ đồ Phao-lô viết. ‘Mọi người phải phục tùng nhà cầm quyền; vì chẳng có thẩm quyền nào mà không đến từ Đức Chúa Trời; các nhà cầm quyền hiện có đều do Đức Chúa Trời chỉ định. Cho nên ai chống đối nhà cầm quyền là chống lại mệnh lệnh Đức Chúa Trời đã lập; và những người làm vậy sẽ chuốc lấy sự phán xét cho mình. Vì nhà chức trách không phải để cho người lương thiện sợ, mà để cho người gian ác sợ. Bạn muốn khỏi phải sợ nhà cầm quyền chăng? Hãy làm điều tốt đẹp, và bạn sẽ được khen thưởng’ (Rô-ma 13:1–3).
Đây hẳn là một ý kiến cấp tiến đối với những đọc giả ban đầu của Phao-lô. Trong thế giới cổ đại, hầu hết mọi người đều coi tôn giáo và chính phủ gắn liền với nhau. Hội thánh đầu tiên vẫn thích nghi với ý tưởng rằng Đấng Mê-si-a sẽ không cai trị dân tộc mình trong một chính phủ trên đất. Những người xung quanh họ sẽ tôn thờ Rome và Hoàng đế như những vị thần. Tuy nhiên, ở đây, Phao-lô bảo họ hãy theo Chúa Giê-su là Vua của họ và vẫn phục tùng chính quyền La Mã.
Sự dạy dỗ của Phao-lô trong Rô-ma 13 cần phải được cân bằng bởi Khải-huyền 13. Khải-huyền 13 được viết vào thời kỳ bắt bớ Cơ đốc nhân dưới thời Hoàng đế Domitian. Nhà nước được coi là đồng minh của ma quỷ (hình ảnh con rồng đỏ), kẻ đã trao quyền lực của mình cho chính quyền giết hại (hình ảnh con quái vật ngoi lên từ biển). Tệ nhất là, chính phủ có thể là ma quỷ.
Cả Rô-ma 13 và Khải huyền 13 đều đúng. Có chính phủ tốt và có chính phủ tồi. Chính phủ loài người có mặt tốt nhưng cũng có thể có mặt xấu. Như Oscar Cullmann nhận xét, tùy theo việc ‘nhà nước duy trì trong giới hạn của nó hay vi phạm chúng, Cơ đốc nhân sẽ mô tả nó là tôi tớ của Chúa hay là công cụ của Ác quỷ’.
Làm thế nào để bạn có thể sống như một công dân tốt?
Thi thiên 89:38-45
38Nhưng bây giờ Chúa lại từ bỏ và khinh thường người,
Nổi giận cùng người được xức dầu của Ngài.
39Chúa đã hủy bỏ giao ước với đầy tớ Ngài;
Ngài làm ô uế vương miện người trong bụi đất.
40Chúa đã triệt hạ tất cả tường thành của người,
Phá hủy những đồn lũy người.
41Mọi kẻ đi ngang qua đều cướp phá người;
Các lân bang sỉ nhục người.
42Chúa đã nhấc cao tay phải của kẻ thù người lên;
Ngài làm cho mọi kẻ thù địch với người vui mừng.
43Chúa làm cho lưỡi gươm người quay lại,
Không còn giúp đỡ người trong cơn chiến trận.
44Chúa chấm dứt thời huy hoàng của người,
Ném ngôi người xuống đất.
45Ngài rút ngắn tuổi thanh xuân của người,
Và bao phủ người bằng sự sỉ nhục, nhuốc nhơ. (Sê-la)
Bình luận
Cầu nguyện cho những người cầm quyền
Y-sơ-ra-ên là một chế độ thần quyền. Hội thánh và nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhau. Vị lãnh đạo được ‘xức dầu’ của dân Chúa (c.38) cũng là người đội ‘vương miện’ (c.39) và ngồi trên ‘ngôi’ (c.44).
Các vua trong Cựu Ước được coi là những người được Chúa xức dầu. Tuy nhiên, nhiều người trong số họ đã phạm tội và bất trung với Chúa. Tác giả Thi Thiên viết: ‘Nhưng bây giờ Chúa lại từ bỏ và khinh thường người, nổi giận cùng người được xức dầu của Ngài. Chúa đã hủy bỏ giao ước với đầy tớ Ngài; Ngài làm ô uế vương miện người trong bụi đất.’ (c.38–39).
Cầu nguyện
Chúa ơi, con cầu nguyện cho chính phủ của chúng con và tất cả các nhà lãnh đạo khác của đất nước chúng con. Nguyện họ không bao giờ bị hổ thẹn. Nguyện họ cai trị cách khôn ngoan và sáng suốt
Rô-ma 13:1-14
Đối với chính quyền
13Mọi người phải phục tùng nhà cầm quyền; vì chẳng có thẩm quyền nào mà không đến từ Đức Chúa Trời; các nhà cầm quyền hiện có đều do Đức Chúa Trời chỉ định. 2Cho nên ai chống đối nhà cầm quyền là chống lại mệnh lệnh Đức Chúa Trời đã lập; và những người làm vậy sẽ chuốc lấy sự phán xét cho mình. 3Vì nhà chức trách không phải để cho người lương thiện sợ, mà để cho người gian ác sợ. Bạn muốn khỏi phải sợ nhà cầm quyền chăng? Hãy làm điều tốt đẹp, và bạn sẽ được khen thưởng; 4vì họ là đầy tớ của Đức Chúa Trời để làm ích lợi cho bạn. Nhưng nếu bạn làm điều gian ác thì hãy lo sợ, vì họ mang gươm không phải là vô cớ đâu; họ là đầy tớ của Đức Chúa Trời để thi hành sự trừng phạt đối với kẻ làm điều gian ác. 5Cho nên phải phục tùng nhà cầm quyền, không những vì sợ bị trừng phạt nhưng cũng vì lương tâm nữa. 6Cũng vì lý do đó mà anh em nộp thuế, vì nhà cầm quyền là đầy tớ của Đức Chúa Trời để lo công việc nầy. 7Hãy trả cho mọi người điều mình mắc nợ: nộp thuế cho kẻ mình phải nộp; đóng lợi tức cho người mình phải đóng; sợ kẻ mình đáng sợ; tôn trọng người đáng tôn trọng.
Tình yêu thương làm trọn luật pháp
8Đừng mắc nợ ai điều gì, ngoại trừ món nợ yêu thương nhau; vì ai yêu người lân cận mình là đã làm trọn luật pháp. 9Vì các điều răn: “Ngươi chớ phạm tội ngoại tình, chớ giết người, chớ trộm cướp, chớ tham lam,” và bất cứ điều răn nào khác, đều tóm tắt trong câu nầy: “Ngươi phải yêu người lân cận như mình.” 10Tình yêu thương không làm hại người lân cận; vì vậy, yêu thương là làm trọn luật pháp.
Hãy thức tỉnh
11Hãy làm như vậy, vì anh em biết mình đang sống trong thời kỳ nào. Đã đến giờ anh em phải thức dậy, vì hiện nay sự cứu rỗi đã gần với chúng ta hơn lúc chúng ta mới tin. 12Đêm đã khuya, ngày gần đến; vậy chúng ta hãy lột bỏ những việc tối tăm mà mặc lấy áo giáp sáng láng. 13Hãy sống một cách đàng hoàng như đi giữa ban ngày, đừng chè chén và say sưa, trụy lạc và phóng đãng, gây gổ và ganh tị. 14Nhưng hãy mặc lấy Chúa là Đức Chúa Jêsus Christ, đừng tìm cách làm thỏa mãn các dục vọng xác thịt.
Bình luận
Tận hưởng tự do dưới thẩm quyền
Chúng ta đang sống trong ở giữa thời kỳ lần đến thứ nhất và thứ hai của Chúa Giê-su. Khi Chúa Giê-su trở lại, Ngài sẽ cai trị và trị vì đời đời. Sẽ không cần đến chính phủ loài người. Tuy nhiên, trong thời gian chờ đợi, chúng ta cần chính phủ loài người. Theo cách nói của Phi-e-rơ, thẩm quyền của các chính phủ được coi là 'thẩm quyền của loài người' (I Phi-e-rơ 2:13).
Điều này không có nghĩa là con người coi chính phủ loài người là độc lập hoặc tách biệt khỏi Đức Chúa Trời. Thay vào đó, nó là một thể chế tiềm ẩn trong sự tồn tại xã hội của con người khi Chúa tạo ra nó.
Tuy nhiên, vì chính Đức Chúa Trời đặt ra các điều khoản, nên Thánh Phao-lô viết rằng mọi người phải phục tùng chính quyền (Rô-ma 13:1-2).
Nếu điều này áp dụng cho thẩm quyền thế tục – vậy khi áp dụng cho thẩm quyền Hội thánh, nó còn phải áp dụng cách mạnh mẽ hơn thế nào? Các Hội thánh khác nhau có cơ cấu thẩm quyền khác nhau. Theo kinh nghiệm của tôi, phục tùng thẩm quyền của những người lãnh đạo trong hội thánh của chúng ta không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng mang lại sự tự do lớn.
Đây là nguyên tắc cơ bản của Tân Ước. Bạn nên tuân theo mọi cơ quan có thẩm quyền – chính phủ, chính quyền địa phương và các tổ chức mà bạn tham gia. Tại sao?
- Bạn làm như vậy vì họ là một phần của thẩm quyền do Đức Chúa Trời thiết lập.
- Bạn làm như vậy vì hậu quả của việc không tuân theo chúng: 'Nhưng nếu bạn làm điều gian ác thì hãy lo sợ, vì họ mang gươm không phải là vô cớ đâu; họ là đầy tớ của Đức Chúa Trời để thi hành sự trừng phạt đối với kẻ làm điều gian ác.’ (c.4).
- ‘…vì lương tâm’ (c.5). Nếu bạn không tuân theo chính quyền, bạn không thể sống với lương tâm trong sáng. ‘Cũng vì lý do đó mà anh em nộp thuế, vì nhà cầm quyền là đầy tớ của Đức Chúa Trời để lo công việc nầy’ (c.5).
Chúng ta thấy ở đây có sự phân biệt rõ ràng giữa đạo đức cá nhân và việc thực thi pháp luật của chính phủ. Trong lĩnh vực đạo đức cá nhân, sự dạy dỗ của Phao-lô rất giống với sự dạy dỗ của Chúa Giê-su: đó là sự không trả đũa và 'giơ má bên kia' (12:14–21). Tuy nhiên, từ đó, ông chuyển sang thảo luận về 'các nhà cầm quyền' (13:1–6). Ông nói về những người cai trị là đầy tớ của Đức Chúa Trời để trừng phạt kẻ làm điều sai trái (c.4).
Nhà nước quan tâm đến việc bảo vệ những người khác. Đứng bên cạnh và cho phép giết người và bạo lực sẽ là thiếu yêu thương và không theo đạo Cơ đốc. Tương tự như vậy, nếu việc chính quyền sử dụng vũ lực để bảo vệ công dân trước các mối đe dọa từ bên trong là đúng, thì cũng đúng khi bảo vệ họ trước các mối đe dọa từ bên ngoài bằng vũ lực, nếu cần. Tất nhiên, trong thực tế, thường cực kỳ khó xác định liệu những việc sử dụng vũ lực đó là chính đáng hay không.
Điều ít gây tranh cãi hơn là chúng ta nên trả những gì mình mắc nợ (c.6–8). Điều này có nghĩa là trả từng xu tiền thuế mà bạn nợ và tất cả các hóa đơn của bạn ngay khi chúng đến: ‘Hãy trả cho mọi người điều mình mắc nợ...Đừng mắc nợ ai điều gì’ (c.7–8).
Không có gì sai khi có một khoản nợ có kế hoạch và có thể quản lý được – thế chấp, khoản vay sinh viên hoặc thẻ tín dụng. Tuy nhiên, chúng ta phải cẩn thận tránh mắc nợ ngoài kế hoạch hoặc không thể quản lý được. Nếu bạn thấy mình mắc nợ, điều quan trọng là đừng phớt lờ nó và tìm sự giúp đỡ càng sớm càng tốt, chẳng hạn như từ một trong nhiều dịch vụ tư vấn nợ của Cơ đốc nhân.
Cách chu toàn lề luật là yêu người thân cận như chính mình. ‘vì ai yêu người lân cận mình là đã làm trọn luật pháp. ’ (c.8b).
Nếu chúng ta làm điều này, chúng ta sẽ không ăn cắp vì sự bất hạnh của người mà chúng ta ăn cắp, chúng ta sẽ không giết hoặc thậm chí không có một sự tức giận vô cớ vì nó sẽ gây tổn thương cho người khác. Chúng ta sẽ không phạm tội ngoại tình vì nó gây thiệt hại cho hôn nhân và các mối quan hệ.
'Vì các điều răn: “Ngươi chớ phạm tội ngoại tình, chớ giết người, chớ trộm cướp, chớ tham lam,” và bất cứ điều răn nào khác, đều tóm tắt trong câu nầy: “Ngươi phải yêu người lân cận như mình.” Tình yêu thương không làm hại người lân cận; vì vậy, yêu thương là làm trọn luật pháp.’ (c.9–10).
Luật pháp được tổng kết và nên trọn bằng tình yêu. Tình yêu không phải là cái cớ để vi phạm các điều răn mà là một cách để tuân giữ chúng. Các điều răn đã được đưa ra vì tình yêu dành cho chúng ta và được thực hiện bởi tình yêu. Phao-lô không viết: nếu bạn yêu bạn không cần tuân theo điều răn. Thay vào đó, ông nói: nếu bạn yêu bạn sẽ thực hiện điều răn.
Chúa Giê-su là mẫu gương cao cả nhất của tình yêu. Phao-lô nói: 'Hãy mặc lấy Chúa là Đức Chúa Giê-su Christ' (c.14). Hãy cầu nguyện để nhân cách của Chúa Giê-su, tình yêu của Ngài, sẽ bao bọc và bảo vệ bạn và được nhìn thấy bởi những người bạn gặp hôm nay.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, con muốn mặc lấy Chúa Giê-su Christ và không 'tìm cách thỏa mãn các dục vọng xác thịt.' (c.14). Xin cho tình yêu của Chúa Giê-su được thể hiện trong con hôm nay.
I Sử-ký 7:1-9:1
Dòng dõi Y-sa-ca
7Các con của Y-sa-ca là: Thô-la, Phu-va, Gia-súp, và Sim-rôn; tất cả là bốn người. 2Các con của Thô-la là: U-xi, Rê-pha-gia, Giê-ri-ên, Giác-mai, Díp-sam, và Sa-mu-ên. Họ đều là trưởng gia tộc của dòng họ Thô-la, và là những chiến sĩ dũng cảm trong gia phả của họ. Trong thời vua Đa-vít, tổng số con cháu họ là hai mươi hai nghìn sáu trăm người. 3Con của U-xi là Dít-ra-hia. Các con của Dít-ra-hia là Mi-ca-ên, Ô-ba-đia, Giô-ên, và Di-si-gia; cả năm cha con đều là trưởng gia tộc. 4Theo gia phả, họ có tất cả ba mươi sáu nghìn quân sẵn sàng ra trận, vì họ có nhiều vợ, đông con. 5Anh em của họ trong tất cả các gia tộc thuộc bộ tộc Y-sa-ca là những chiến sĩ dũng cảm, có tám mươi bảy nghìn quân.
Dòng dõi Bên-gia-min
6Các con của Bên-gia-min là Bê-la, Bê-ke, và Giê-đi-a-ên; tất cả là ba người. 7Các con của Bê-la là Ét-bôn, U-xi, U-xi-ên, Giê-ri-mốt, và Y-ri; tất cả là năm người, đều là trưởng gia tộc và là dũng sĩ. Theo gia phả, tổng số con cháu họ được hai mươi hai nghìn không trăm ba mươi bốn người. 8Các con của Bê-ke là Xê-mi-ra, Giô-ách, Ê-li-ê-se, Ê-li-ô-ê-nai, Ôm-ri, Giê-rê-mốt, A-bi-gia, A-na-tốt, và A-lê-mết. Tất cả những người nầy đều là con của Bê-ke, 9họ đều là trưởng gia tộc và là dũng sĩ. Theo gia phả, tổng số con cháu họ được hai mươi nghìn hai trăm người. 10Con của Giê-đi-a-ên là Binh-han; các con của Binh-han là Giê-úc, Bên-gia-min, Ê-hút, Kê-na-na, Xê-than, Ta-rê-si, và A-hi-sa-ha. 11Tất cả những người nầy là con cháu của Giê-đi-a-ên; họ đều là trưởng gia tộc và dũng sĩ. Tổng số con cháu của họ sẵn sàng ứng chiến là mười bảy nghìn hai trăm người. 12Ngoài ra còn có Súp-bim và Hốp-bim là con của Y-rơ; Hu-sim là con của A-he.
Dòng dõi Nép-ta-li, Ma-na-se, Ép-ra-im, và A-se
13Các con của Nép-ta-li là Gia-si-ên, Gu-ni, Giê-xe, và Sa-lum; họ đều là cháu của bà Bi-la.
Dòng dõi Ma-na-se
14Con của Ma-na-se là Ách-ri-ên, do vợ lẽ người A-ram sinh ra; bà cũng sinh Ma-ki, là cha của Ga-la-át. 15Ma-ki cưới vợ cho Hốp-bim và Súp-bim. Em gái của Ma-ki là Ma-a-ca. Tên của người con thứ là Xê-lô-phát; Xê-lô-phát chỉ sinh được con gái. 16Ma-a-ca, vợ của Ma-ki, sinh được một đứa con trai, đặt tên là Phê-rết; tên của người em là Sê-rết. Sê-rết sinh U-lam và Ra-kem. 17Con của U-lam là Bê-đan. Đó là con cháu của Ga-la-át, con của Ma-ki, cháu của Ma-na-se. 18Em gái của Ga-la-át là Ha-mô-lê-kết sinh Y-sốt, A-bi-ê-xe, và Mác-la. 19Các con của Sê-mi-đa là A-hi-an, Sê-kem, Li-khi, và A-ni-am.
Dòng dõi Ép-ra-im
20Con của Ép-ra-im là Su-tê-la; con của Su-tê-la là Bê-re, con của Bê-re là Ta-hát, con của Ta-hát là Ê-lê-a-đa, con của Ê-lê-a-đa là Ta-hát, 21con của Ta-hát là Xa-bát, con của Xa-bát là Su-tê-la, Ê-xe, và Ê-lê-át; họ bị người địa phương ở đất Gát giết chết vì họ xuống Gát cướp bầy súc vật của chúng. 22Ép-ra-im, cha của họ, để tang lâu ngày, và anh em ông đều đến an ủi ông. 23Sau đó, ông ăn ở với vợ. Bà mang thai và sinh được một đứa trai, đặt tên là Bê-ri-a, vì gia đình ông lúc ấy gặp điều bất hạnh. 24Con gái ông là Sê-ê-ra; người đã xây thành Bết Hô-rôn Thượng, Bết Hô-rôn Hạ, và thành U-xên Sê-ê-ra. 25Ông còn có một người con nữa là Rê-pha; Rê-pha sinh Rê-sép và Tê-la; Tê-la sinh Tha-han; 26Ta-han sinh La-ê-đan; La-ê-đan sinh Am-mi-hút; Am-mi-hút sinh Ê-li-sa-ma; 27Ê-li-sa-ma sinh Nun; và Nun sinh Giô-suê. 28Sản nghiệp và nơi ở của họ là Bê-tên và các vùng phụ cận; về phía đông là Na-a-ran, và về phía tây là Ghê-xe và các vùng phụ cận; cũng có Si-chem và các vùng phụ cận, cho đến A-da và các vùng phụ cận. 29Dọc theo biên giới bộ tộc Ma-na-se có Bết Sê-an và các vùng phụ cận, Ta-nác và các vùng phụ cận, Mê-ghi-đô và các vùng phụ cận, Đô-rơ và các vùng phụ cận. Con cháu Giô-sép, con trai Y-sơ-ra-ên, cư ngụ tại những nơi ấy.
Dòng dõi A-se
30Các con của A-se là Dim-na, Dích-va, Dích-vi, Bê-ri-a và Sê-ra, là em gái của họ.31Các con của Bê-ri-a là Hê-be và Manh-ki-ên; Manh-ki-ên là người sáng lập Biếc-xa-vít. 32Hê-be sinh Giáp-phơ-lết, Sê-me, Hô-tham, và Su-a là em gái của họ. 33Các con của Giáp-phơ-lết là Pha-sác, Bim-hanh, và A-vát. Đó là những con trai của Giáp-phơ-lết. 34Các con của Sê-me là A-hi, Rô-hê-ga, Hu-ba, và A-ram. 35Các con của Hê-lem, em Sê-me, là Xô-pha, Dim-na, Sê-lết, và A-manh. 36Các con của Xô-pha là Su-a, Hạt-nê-phê, Su-anh, Bê-ri, Dim-ra, 37Bết-se, Hốt, Sa-ma, Sinh-sa, Dít-ran, và Bê-ê-ra. 38Các con của Giê-the là Giê-phu-nê, Phít-ba, và A-ra. 39Các con của U-la là A-ra, Ha-ni-ên, và Ri-xi-a. 40Tất cả những người nầy đều là con cháu của A-se, làm trưởng gia tộc, vốn là những chiến sĩ dũng cảm được tuyển chọn, đứng đầu các quan tướng. Theo gia phả, tổng số người sẵn sàng chiến đấu là hai mươi sáu nghìn người.
Dòng dõi Bên-gia-min
8Bên-gia-min sinh con đầu lòng là Bê-la, con thứ nhì là Ách-bên, con thứ ba là Ạc-ra, 2con thứ tư là Nô-ha, và con thứ năm là Ra-pha. 3Các con của Bê-la là Át-đa, Ghê-ra, A-bi-hút, 4A-bi-sua, Na-a-man, A-hoa, 5Ghê-ra, Sê-phu-phan, và Hu-ram. 6Các con của Ê-hút đều là trưởng gia tộc của dân sống ở Ghê-ba, và bắt dân ấy đày sang ở đất Ma-na-hát. 7Các con của Ê-hút đó là Na-a-man, A-hi-gia, và Ghê-ra; chính Ghê-ra, cha của U-xa và A-hi-hút, là người bắt dân Ghê-ba sang ở đất Ma-na-hát.
8Sa-ha-ra-im sinh các con trong xứ Mô-áp sau khi bỏ hai người vợ là Hu-sim và Ba-ra. 9Ông cưới bà Hô-đe và sinh được Giô-báp, Xi-bia, Mê-sa, Manh-cam, 10Giê-út, Sô-kia, và Mịt-ma. Những người con nầy của ông đều làm trưởng gia tộc. 11Bà Hu-sim cũng sinh cho ông: A-bi-túp và Ên-ba-anh. 12Các con của Ên-ba-anh là Ê-be, Mi-sê-am, Sê-mết (ông nầy xây thành Ô-nô và Lót cùng các làng chung quanh), 13Bê-ri-a và Sê-ma (hai người nầy làm trưởng gia tộc của dân A-gia-lôn, và đã đuổi dân thành Gát). 14Các con của Bê-ri-a là A-hi-ô, Sa-sác, Giê-rê-mốt, 15Xê-ba-đia, A-rát, Ê-đe, 16Mi-ca-ên, Dít-pha, và Giô-ha. 17Các con của Ên-pa-anh là Xê-ba-đia, Mê-su-lam, Hi-ki, Hê-be, 18Gít-mê-rai, Gít-lia, và Giô-báp. 19Các con của Si-mê-i là Gia-kim, Xiếc-ri, Xáp-đi, 20Ê-li-ê-nai, Xi-lê-tai, Ê-li-ên, 21A-đa-gia, Bê-ra-gia, và Sim-rát. 22Các con của Sa-sác là Gít-pan, Ê-be, Ê-li-ên, 23Áp-đôn, Xiếc-ri, Ha-nan, 24Ha-na-nia, Ê-lam, An-tô-ti-gia, 25Gíp-đê-gia, và Phê-nu-ên. 26Các con của Giê-rô-ham là Sam-sê-rai, Sê-ha-ria, A-ta-lia, 27Gia-rê-sia, Ê-li-gia, và Xiếc-ri. 28Những người nầy làm trưởng gia tộc, đứng đầu trong dòng dõi họ, và ở tại thành Giê-ru-sa-lem.
29Giê-i-ên, người sáng lập thành Ga-ba-ôn, ở tại Ga-ba-ôn, có vợ tên là Ma-a-ca.30Con trưởng nam của ông là Áp-đôn. Ngoài ra, ông còn sinh Xu-rơ, Kích, Ba-anh, Na-đáp, 31Ghê-đô, A-hi-ô, và Xê-ke. 32Mích-lô sinh Si-mê-a; họ cùng sinh sống với anh em mình tại Giê-ru-sa-lem. 33Nê-rơ sinh Kích; Kích sinh Sau-lơ; Sau-lơ sinh Giô-na-than, Manh-ki-sua, A-bi-na-đáp, và Ếch-ba-anh. 34Con của Giô-na-than là Mê-ri Ba-anh; Mê-ri Ba-anh sinh Mi-ca. 35Các con của Mi-ca là Phi-thôn, Mê-léc, Ta-rê-a, và A-cha. 36A-cha sinh Giê-hô-a-đa; Giê-hô-a-đa sinh A-lê-mết, Ách-ma-vết, và Xim-ri; Xim-ri sinh Một-sa; 37Một-sa sinh Bi-nê-a; con của Bi-nê-a là Ra-pha; Ra-pha sinh Ê-lê-a-sa; Ê-lê-a-sa sinh A-xên. 38A-xên có sáu con trai tên là: A-ri-kham, Bốc-ru, Ích-ma-ên, Sê-a-ria, Ô-ba-đia, và Ha-nan. Tất cả những người nầy đều là con trai của A-xên. 39Con trưởng nam của Ê-sết, em của A-xên, là U-lam, con thứ nhì là Giê-úc, và con thứ ba là Ê-li-phê-lết. 40Các con của U-lam đều là những chiến sĩ can đảm, có tài bắn cung. Họ có con cháu rất đông, tổng số là một trăm năm mươi người. Tất cả những người nầy đều là con cháu của Bên-gia-min.
Dân thành Giê-ru-sa-lem trở về từ chốn lưu đày
9Như thế, tất cả người Y-sơ-ra-ên đều được liệt kê vào gia phả, và đã được ghi chép trong sách của các vua Y-sơ-ra-ên.
Dân Giu-đa bị bắt đày sang Ba-by-lôn vì tội bất trung của họ. 2Những người đầu tiên trở về tái định cư trong các sản nghiệp, trong các thành của họ, là người Y-sơ-ra-ên, các thầy tế lễ, người Lê-vi, và những người phục vụ trong đền thờ.
3Những người thuộc các bộ tộc Giu-đa, Bên-gia-min, Ép-ra-im, và Ma-na-se cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem gồm có: 4Về dòng tộc Phê-rết, con của Giu-đa, có U-thai, con của A-mi-hút; A-mi-hút con của Ôm-ri, Ôm-ri con của Im-ri, và Im-ri con của Ba-ni. 5Về người Si-lô-ni có A-sai-gia, con trưởng nam, và các con của ông. 6Về dòng tộc Xê-rách có Giê-u-ên và anh em ông, tất cả sáu trăm chín mươi người. 7Về dòng tộc Bên-gia-min có Sa-lu, con của Mê-su-lam (Mê-su-lam con của Hô-đa-via; Hô-đa-via con của A-sê-nu-a); 8cũng có Gíp-nê-gia, con Giê-rô-ham; Ê-la con của U-xi (U-xi là con của Mi-cơ-ri); và Mê-su-lam, con của Sê-pha-tia (Sê-pha-tia con của Rê-u-ên; Rê-u-ên con của Gíp-nê-gia). 9Anh em của họ kể theo phả hệ được chín trăm năm mươi sáu người. Tất cả những người nầy đều làm trưởng các gia tộc của họ.
Các gia tộc thầy tế lễ
10Về các thầy tế lễ có Giê-đa-gia, Giê-hô-gia-ríp, Gia-kin, 11và A-xa-ria, con của Hinh-kia (Hinh-kia con của Mê-su-lam; Mê-su-lam con của Xa-đốc; Xa-đốc con của Mê-ra-giốt; Mê-ra-giốt con của A-hi-túp, là người quản lý đền thờ của Đức Chúa Trời); 12cũng có A-đa-gia, con của Giê-rô-ham (Giê-rô-ham con của Pha-sua; Pha-sua con của Manh-ki-gia; Manh-ki-gia con của Ma-ê-sai; Ma-ê-sai con của A-đi-ên; A-đi-ên con của Gia-xê-ra; Gia-xê-ra con của Mê-su-lam; Mê-su-lam con của Mê-si-lê-mít; Mê-si-lê-mít con của Y-mê). 13Anh em của họ, tất cả là một nghìn bảy trăm sáu mươi người, đều làm trưởng gia tộc, có khả năng phục vụ trong đền thờ của Đức Chúa Trời.
Các gia tộc người Lê-vi
14Trong số những người Lê-vi có Sê-ma-gia, con của Ha-súp, cháu của A-ri-kham, chắt của Ha-sa-bia; tất cả đều thuộc về dòng Mê-ra-ri; 15cũng có Bác-ba-cát, Hê-re, Ga-la, Ma-tha-nia, đều là con của Mi-ca, cháu của Xiếc-ri, chắt của A-sáp;16Ô-ba-đia, con của Sê-ma-gia, cháu của Ga-la, chắt của Giê-đu-thun; Bê-rê-kia, con của A-sa, cháu của Ên-ca-na, là người ở trong các làng của người Nê-tô-pha-tít.
17Những người canh cửa gồm có: Sa-lum, A-cúp, Tanh-môn, A-hi-man, và anh em của họ; Sa-lum là người đứng đầu. 18Cho đến bây giờ họ canh cửa phía đông của vua; còn trước kia, tổ tiên họ đều giữ cửa trại người Lê-vi. 19Sa-lum con của Cô-rê, cháu của Ê-bi-a-sáp, chắt của Cô-ra, và anh em cùng họ hàng của ông thuộc dòng Cô-ra, lo việc phục dịch và canh giữ các cửa Lều Tạm; cũng như trước kia, tổ phụ họ chịu trách nhiệm canh giữ cửa trại của Đức Giê-hô-va. 20Xưa kia Phi-nê-a, con của Ê-lê-a-sa, đã từng là quản đốc của họ; và Đức Giê-hô-va ở với ông. 21Xa-cha-ri, con của Mê-sê-lê-mia, là người giữ cửa Lều Hội Kiến. 22Tổng số những người được lựa chọn để canh cửa là hai trăm mười hai người. Họ được ghi vào gia phả theo làng xóm của họ. Vua Đa-vít và nhà tiên kiến Sa-mu-ên đã tín nhiệm giao cho họ trách nhiệm nầy. 23Như thế, họ và con cháu họ đều có nhiệm vụ canh giữ các cửa của nhà Đức Giê-hô-va, tức là Đền Tạm. 24Những người canh cửa giữ ở bốn phía: đông, tây, nam, bắc. 25Các anh em của họ ở trong các làng, theo phiên thứ, phải đến giúp họ một tuần. 26Bốn người Lê-vi, đứng đầu những người canh cửa, còn có trách nhiệm coi sóc các phòng và kho tàng trong nhà của Đức Chúa Trời. 27Ban đêm, họ ở chung quanh nhà của Đức Chúa Trời, vì họ có trách nhiệm canh giữ; mỗi buổi sáng, họ phải mở cửa.
28Trong số họ, có một số người được chỉ định trông coi các vật dụng trong đền thờ; họ phải đếm những vật dụng nầy lúc đem ra, cũng như lúc đem vào. 29Lại cũng có người được chỉ định coi sóc đồ đạc và các vật dụng trong nơi thánh, cùng với tinh bột, rượu, dầu, trầm hương, và hương liệu. 30Trong số các con của những thầy tế lễ có người pha chế các hương liệu. 31Còn Ma-ti-thia, người Lê-vi, con trưởng nam của Sa-lum, thuộc về dòng Cô-ra, lo việc nướng bánh tế lễ. 32Trong số anh em của họ thuộc dòng Kê-hát, có người được chỉ định lo việc làm bánh cung hiến, chuẩn bị sẵn cho mỗi ngày Sa-bát.
33Đây là những người có nhiệm vụ ca hát; họ đều là trưởng gia tộc người Lê-vi, vẫn ở trong các phòng ốc, và được miễn các công việc khác vì họ phục vụ ngày đêm. 34Theo gia phả, những người ấy đều làm trưởng gia tộc của người Lê-vi, và ở tại thành Giê-ru-sa-lem.
Dòng dõi của Sau-lơ và Giô-na-than
35Giê-i-ên, người sáng lập thành Ga-ba-ôn, ở tại Ga-ba-ôn, có vợ tên là Ma-a-ca. 36Con trưởng nam của ông là Áp-đôn; thứ đến là Xu-rơ, Kích, Ba-anh, Nê-rơ, Na-đáp, 37Ghê-đô, A-hi-ô, Xa-cha-ri, và Mích-lô. 38Mích-lô sinh Si-mê-am. Họ cùng với anh em mình sống gần anh em họ hàng tại thành Giê-ru-sa-lem. 39Nê-rơ sinh Kích; Kích sinh Sau-lơ; Sau-lơ sinh Giô-na-than, Manh-ki-sua, A-bi-na-đáp, và Ếch-ba-anh. 40Con của Giô-na-than là Mê-ri Ba-anh; Mê-ri Ba-anh sinh Mi-ca. 41Các con của Mi-ca là Phi-thôn, Mê-léc, Ta-rê-a, và A-cha. 42A-cha sinh Gia-ê-ra; Gia-ê-ra sinh A-lê-mết, Ách-ma-vết và Xim-ri; Xim-ri sinh Một-sa; 43Một-sa sinh Bi-nê-a, con của Bi-nê-a là Rê-pha-gia; Rê-pha-gia sinh Ê-lê-a-sa; và Ê-lê-a-sa sinh A-xên. 44A-xên có sáu người con trai tên là A-ri-kham, Bốc-ru, Ích-ma-ên, Sê-a-ria, Ô-ba-đia, và Ha-nan; đó là các con của A-xên.
Bình luận
Nhận thức được giới hạn của thẩm quyền
Khi chúng ta nhìn khắp thế giới ngày nay, chúng ta thấy sự lãnh đạo, chính phủ tốt và tồi. Người dân Y-sơ-ra-ên cũng có phần của họ trong chính phủ tồi.
Khi người viết sách sử ký kết thúc các danh sách và gia phả, ông viết, 'Như thế, tất cả người Y-sơ-ra-ên đều được liệt kê vào gia phả, và đã được ghi chép trong sách của các vua Y-sơ-ra-ên. Dân Giu-đa bị bắt đày sang Ba-by-lôn vì tội bất trung của họ. ' (9:1). Trong danh sách đó, ông đề cập đến Sau-lơ, 'Kích sinh Sau-lơ; Sau-lơ sinh Giô-na-than' (8:33), người mà sau này ông sẽ nêu bật như một ví dụ về một người khởi đầu là một người cai trị tốt nhưng cuối cùng lại trở thành một vị vua tồi. một (10:13–14).
Sau-lơ trở thành một ví dụ về loại chính phủ được nói đến trong Khải huyền 13. Tuy nhiên, Đa-vít đã cố gắng hết sức có thể để giữ lòng trung thành và phục tùng thẩm quyền của Sau-lơ.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, xin giúp con sống như một công dân tốt với thái độ đúng đắn đối với tất cả những người mà Chúa đặt quyền trên con. Xin giúp con thuận phục ngay cả khi con thây bất đồng. Xin giúp chúng con cũng có sự khôn ngoan để biết khi nào đã đạt đến giới hạn.
Pippa chia sẻ
'Đêm đã khuya, ngày gần đến; vậy chúng ta hãy lột bỏ những việc tối tăm mà mặc lấy áo giáp sáng láng.' (Rô-ma 13:12)
App
Tải xuống ứng dụng Kinh Thánh Trong Một Năm dành cho thiết bị iOS hoặc Android và đọc theo mỗi ngày.
Đăng ký ngay bây giờ để nhận Kinh thánh trong một năm trong hộp thư đến của bạn mỗi sáng. Bạn sẽ nhận được một email mỗi ngày.
Book
Kinh thánh trong một năm bình luận có sẵn như là một cuốn sách.
- Mua từ Cửa hàng Alpha
- [Mua từ Nhà sách CLC](https://clcbookshops.com/product/bible-in-one-year-the-a-commentary-by-nicky-gumbel-hard-cover-gumbel-nicky-hodder-stoughton- 9781473677067)
Tham khảo
Oscar Cullmann, The State in the New Testament (SCM, 1957) p.86.
Trừ khi có quy định khác, các trích dẫn Kinh thánh được lấy từ Kinh thánh, Phiên bản quốc tế mới được Anh hóa, Bản quyền © 1979, 1984, 2011 Biblica, trước đây là Hiệp hội Kinh thánh Quốc tế. Được sử dụng dưới sự cho phép của Hodder & Stoughton Publishers, một công ty của Hachette UK. Đã đăng ký Bản quyền. 'NIV' là nhãn hiệu đã đăng ký của Biblica. Nhãn hiệu Vương quốc Anh số 1448790.
Thánh Kinh được đánh dấu (MSG) lấy từ The Message. Bản quyền © 1993, 1994, 1995, 1996, 2000, 2001, 2002. Được sử dụng dưới sự cho phép của NavPress Publishing Group.