Ngày 75

Bạn Có Ân Huệ của Chúa

Khôn ngoan Thi Thiên 34: 1-10
Tân ước Lu -ca 1: 39–56
Cựu Ước Dân Số Ký 2:10–3:51

Giới thiệu

Trong năm đầu tiên học đại học, ở tuổi mười tám, tôi đã đọc cả Tân Ước trong vòng một tuần – từ Ma-thi-ơ đến Khải huyền – và được thuyết phục, 'đó chính là lẽ thật'. Nhưng tôi lưỡng lự đi theo Chúa Giê-su, vì tôi nghĩ có thể cuộc sống của mình sẽ rất buồn tẻ và có thể tôi sẽ phải từ bỏ mọi thú vui. Trên thực tế, nó hoàn toàn ngược lại. Tôi đã tìm được điều gì đó thậm chí còn tốt hơn hạnh phúc.

Tất cả chúng ta đều muốn có cuộc sống hạnh phúc. Aristotle đã viết: ‘Hạnh phúc là ý nghĩa và mục đích của cuộc sống, là toàn bộ đích đến và điều cuối cùng của sự tồn tại của con người.’ Tuy nhiên, có điều gì đó thậm chí còn tốt hơn, vĩ đại hơn và sâu sắc hơn hạnh phúc. Hạnh phúc phụ thuộc vào những gì xảy ra - hoàn cảnh của chúng ta. Sự vui mừng sâu sắc hơn nhiều và không phải phụ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài của chúng ta. Đó là phước hạnh từ Chúa. Niềm vui là đặc điểm của sự tương giao với Chúa Giê-su ngay cả khi Ngài chỉ là hài nhi còn trong lòng mẹ (Lu-ca 1:44).

Đoạn Tân Ước hôm nay sử dụng một từ Hy Lạp nghĩa là 'được chúc phước'. Nó có nghĩa là người có đặc ân nhận được ân huệ của Đức Chúa Trời, được may mắn và hạnh phúc vì điều đó. Bản Kinh Thánh Amplified Bible mô tả đó là được hạnh phúc, đáng ghen tị và thịnh vượng thuộc linh – với niềm vui trong cuộc sống và sự thỏa lòng về ân huệ và sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, bất kể hoàn cảnh bên ngoài của họ như thế nào (Ma-thi-ơ 5:3, AMP).

Khôn ngoan

Thi Thiên 34: 1-10

Ca ngợi Đức Giê-hô-va đã chăm sóc và giải cứu mình

Thi Thiên của Đa-vít, sáng tác khi ông giả điên trước mặt A-bi-mê-léc và bị đuổi đi

  1Tôi sẽ chúc tụng Đức Giê-hô-va luôn luôn,
   Sự ca ngợi Ngài hằng ở nơi miệng tôi.
  2Linh hồn tôi sẽ khoe mình về Đức Giê-hô-va,
   Những người nhu mì sẽ nghe và vui mừng.
  3Hãy cùng tôi tôn kính Đức Giê-hô-va,
   Chúng ta cùng nhau tôn cao danh của Ngài.

  4Tôi đã tìm cầu Đức Giê-hô-va và Ngài đáp lời tôi,
   Giải cứu tôi khỏi các điều sợ hãi.
  5Người nào ngưỡng trông Chúa thì được chiếu sáng;
   Họ chẳng bao giờ bị thẹn mặt.
  6Kẻ khốn cùng nầy kêu cầu và Đức Giê-hô-va nhậm lời,
   Ngài giải cứu người khỏi mọi nỗi gian truân.
  7Thiên sứ của Đức Giê-hô-va đóng trại chung quanh những người kính sợ Ngài
   Và giải cứu họ.
  8Hãy nếm thử và nhận biết Đức Giê-hô-va tốt đẹp dường bao!
   Phước cho người nào nương náu mình nơi Ngài!
  9Hỡi các thánh của Đức Giê-hô-va, hãy kính sợ Ngài!
   Vì người nào kính sợ Ngài chẳng thiếu thốn gì hết.
  10Sư tử tơ có thể thiếu thốn và đói khát,
   Nhưng người nào tìm cầu Đức Giê-hô-va sẽ chẳng thiếu điều tốt lành nào.

Bình luận

Ngợi khen Chúa vì mọi ân huệ của Ngài

Trong ba mươi lăm năm qua, Pippa và tôi đã đi khắp thế giới. Đôi khi chúng tôi được mời một số thức ăn trông khá khác lạ mà chúng tôi chưa bao giờ ăn hoặc thậm chí chưa từng nhìn thấy trước đây. Kết quả thường là tôi lại thấy chúng rất ngon. Chỉ có một cách duy nhất để biết điều đó – hãy 'nếm và nhận biết'.

Đa-vít nói, ‘Hãy nếm thử và nhận biết Đức Giê-hô-va tốt đẹp dường bao! Phước cho người nào nương náu mình nơi Ngài!’ (c.8). Đó là điều tôi đã kinh nghiệm khi bắt đầu theo Chúa Giê-su. Kể từ đó, tôi luôn mong muốn gửi thông điệp đó đến nhiều người nhất có thể và nói với họ: ‘Hãy cùng tôi tôn kính Đức Giê-hô-va, chúng ta cùng nhau tôn cao danh của Ngài’ (c.3).

Giống như Đa-vít, hãy ca ngợi Chúa vì tất cả những ân huệ qua mối thông công với Đức Chúa Trời đã mang lại cho đời sống của bạn. Chúc tụng Chúa ‘luôn luôn’ (c.1) không chỉ khi mọi việc đang diễn ra tốt đẹp hoặc khi thuận tiện để làm như vậy: ‘Tôi sẽ chúc tụng Đức Giê-hô-va luôn luôn, sự ca ngợi Ngài hằng ở nơi miệng tôi’ (c.1–2).

Tôn ngợi Chúa vì Ngài:

1. Đáp lời cầu nguyện

Đa-vít viết: 'Tôi đã tìm cầu Đức Giê-hô-va và Ngài đáp lời tôi' (c.4a). Chúa đã giúp đỡ ông trong những lúc gian truân, ‘Kẻ khốn cùng nầy kêu cầu và Đức Giê-hô-va nhậm lời, Ngài giải cứu người khỏi mọi nỗi gian truân’ (c.6).

2.Tự do khỏi sự sợ hãi

Đa-vít tiếp tục giải thích chính xác cách Đức Chúa Trời đã đáp lời cầu nguyện của ông trong trường hợp này: 'Ngài... giải cứu tôi khỏi các điều sợ hãi' (c.4b).

Những ai kính sợ Đức Chúa Trời được giải thoát khỏi mọi sự sợ hãi của họ. 'Kính sợ Ngài' (c.9a) tương đương với 'tìm cầu Chúa' (so sánh câu 9b, 'Vì người nào kính sợ Ngài chẳng thiếu thốn gì hết' với câu 10b, 'Nhưng người nào tìm cầu Đức Giê-hô-va sẽ chẳng thiếu điều tốt lành nào').

Đa-vít không nói rằng chúng ta sẽ không thiếu thốn gì, nhưng ông nói: 'Nhưng người nào tìm cầu Đức Giê-hô-va sẽ chẳng thiếu điều tốt lành nào' (c.10b). Hoặc như bản Kinh Thánh Diễn Ý đã viết, 'Người kính sợ Chúa chẳng thiếu thốn bao giờ' (c.9b, BDY).

3. Những khuôn mặt rạng rỡ

Một trong những điều tôi nhận thấy, ngay cả trước khi tôi là một Cơ Đốc nhân, là vẻ rạng rỡ trên khuôn mặt của nhiều con dân Chúa. Họ 'ngưỡng trông Chúa thì được chiếu sáng; họ chẳng bao giờ bị thẹn mặt’ (c.5).

4. Sự bảo vệ thiên thượng

‘hiên sứ của Đức Giê-hô-va đóng trại chung quanh những người kính sợ Ngài và giải cứu họ’ (c.7). Thật là một ý nghĩ tuyệt vời khi bạn cầu nguyện và thờ phượng Đức Chúa Trời, bạn sẽ kinh nghiệm sự bảo vệ thiên thượng.

'Hết thảy niềm vui tuôn tràn thành lời ngợi ca một cách tự nhiên' C.S. Lewis đã viết: '... niềm vui sẽ không trọn vẹn cho đến khi nó được bày tỏ ra.'

Cầu nguyện

Kính lạy Chúa, con thật biết ơn vì Ngài hứa sẽ giải cứu con khỏi mọi nỗi sợ hãi của con. Cảm ơn Chúa vì thiên sứ của Ngài đóng lại xung quanh để bảo vệ con như con cầu nguyện. Lạy Chúa, con cảm tạ, ngợi khen và thờ phượng Chúa hôm nay.

Tân ước

Lu -ca 1: 39–56

Ma-ri viếng thăm Ê-li-sa-bét. – Bài ca của Ma-ri

39Trong những ngày ấy, Ma-ri đứng dậy, vội vã đi về miền núi, đến một thành của Giu-đa, 40vào nhà Xa-cha-ri và chào Ê-li-sa-bét. 41Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng Ma-ri chào thì thai nhi trong bụng liền nhảy nhót. Ê-li-sa-bét được đầy dẫy Đức Thánh Linh; 42bà reo lên rằng: “Cô thật có phước trong giới phụ nữ, thai nhi trong bụng cô cũng được phước. 43Do đâu tôi được vinh hạnh nầy, là mẹ của Chúa đến thăm tôi? 44Vì kìa, khi tai tôi vừa nghe tiếng cô chào thì thai nhi trong bụng tôi liền nhảy mừng.
45Phước cho cô đã tin, vì lời Chúa phán với cô sẽ được ứng nghiệm!”
46Ma-ri nói:
  “Linh hồn tôi tôn ngợi Chúa,
   47Tâm linh tôi mừng rỡ trong Đức Chúa Trời là Cứu Chúa tôi,   48Vì Ngài đã đoái thương thân phận hèn mọn của tớ gái Ngài.
   Nầy, từ nay về sau, mọi thế hệ sẽ khen tôi là người có phước;
  49Bởi Đấng Toàn Năng đã làm các việc lớn cho tôi.
   Danh Ngài là thánh,
  50Và Ngài thương xót những người kính sợ Ngài,
   Từ thế hệ nầy qua thế hệ kia.
  51Ngài đã dùng tay Ngài làm những việc quyền năng;
   Làm tan tác những kẻ có tư tưởng kiêu ngạo trong lòng.
  52Ngài đã truất ngôi những kẻ thống trị,
   Và cất nhắc những người khiêm nhường lên.
  53Ngài đã làm cho người đói được đầy thức ngon,
   Và đuổi kẻ giàu về tay không.
  54Ngài đã giúp đỡ Y-sơ-ra-ên, đầy tớ Ngài,
   Và nhớ lại sự thương xót của Ngài,
  55Như đã phán với tổ phụ chúng ta,
   Với Áp-ra-ham và dòng dõi người đến muôn đời.”
56Ma-ri ở với Ê-li-sa-bét khoảng ba tháng, rồi trở về nhà mình.

Bình luận

Tin lời hứa về ân huệ của Đức Chúa Trời

Ma-ri là người 'được ơn' (1:28). Thiên sứ nói với bà rằng bà là người 'được ơn trước mặt Đức Chúa Trời' (c.30).

Phân đoạn Kinh Thánh này tràn ngập sự ca ngợi khi Ê-li-sa-bét và Ma-ri nhận ra những cách mà Chúa đã ban ơn trên họ.

Bà Ê-li-sa-bét, tràn đầy Đức Thánh Linh, hát về Ma-ri: ‘Cô thật có phước trong giới phụ nữ, thai nhi trong bụng cô cũng được phước. Do đâu tôi được vinh hạnh nầy, là mẹ của Chúa đến thăm tôi? Vì kìa, khi tai tôi vừa nghe tiếng cô chào thì thai nhi trong bụng tôi liền nhảy mừng. Phước cho cô đã tin, vì lời Chúa phán với cô sẽ được ứng nghiệm!”’ (c. 42–45).

Việc nhấn mạnh vào đức tin của Ma-ri rất quan trọng, vì nhiều người có lẽ sẽ phản ứng rất khác trong hoàn cảnh của bà. Ân huệ của Đức Chúa Trời không có nghĩa là mọi vấn đề của Ma-ri biến mất – bà đang mang thai và chưa lập gia đình trong một nền văn hóa mà điều đó sẽ gây ra rất nhiều thử thách.

Tuy nhiên, bà chọn cách nhận ra những cách mà Chúa đã ban phước cho bà. Bà đón nhận lời chào của Ê-li-sa-bét và ca ngợi Chúa bài ca được biết đến với cái tên 'Magnificat'. Trong bài ca đó, bà bày tỏ 'tâm linh tôi mừng rỡ trong Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa tôi’ (c.47) vì tất cả những điều mà ‘Đấng Toàn Năng đã làm... cho tôi. Danh Ngài là thánh’ (c.49).

Theo một cách nào đó, ân huệ dành cho Ma-ri là duy nhất: 'Bà có phước hơn mọi người nữ' (c. 42a). Ma-ri là:

1. Mẹ của Chúa Giê-su

Ma-ri đã mang thai Con Đức Chúa Trời, Kinh Thánh chép rằng Chúa Giê-su là 'thai nhi trong bụng' mẹ cũng được phước (c.42b). Khi bà Ê-li-sa-bét đến trong sự hiện diện của Hài Nhi Giê-su, bà được 'được đầy dẫy Đức Thánh Linh' (c.41). 'Vui mừng' là phản ứng đặc trưng khi đứng trước Chúa Giê-su – ngay cả 'thai nhi trong bụng tôi liền nhảy mừng' (c.44).

2. Được khen ngợi trong tất cả các thế hệ mai sau

‘Nầy, từ nay về sau, mọi thế hệ sẽ khen tôi là người có phước’ (c.48). Kể từ đó, Ma-ri được gọi là 'Người Nữ được phước'.

DNA của Chúa Giê-su đến từ sự kết hợp của Ma-ri và Chúa Thánh Linh. Ngài là con trai về mặt di truyền của Ma-ri. Ngài có lẽ trông giống như bà. Chúa Giê-su có thể cũng có một số đặc điểm thuộc thể của mẹ Ngài. Bà đã chăm sóc Ngài. Bà đã huấn luyện và nuôi dạy Ngài. Trong ba mươi năm, bà là người phụ nữ có ảnh hưởng lớn đến cuộc đời Ngài.

3. Đỉnh cao của đức tin

Phước cho cô đã tin, vì lời Chúa phán với cô sẽ được ứng nghiệm!’ (c.45). Ma-ri tin rằng những gì Chúa đã nói với bà – điều gì đó duy nhất và không thể đối với con người – sẽ xảy ra. Như thiên sứ đã nói với Ma-ri: 'không có việc gì Đức Chúa Trời chẳng làm được' (c.37).

Đối với Ma-ri, thật là tốt lành khi điều mà Đức Chúa Trời hứa cho bà đã thành hiện thực: ‘Bởi Đấng Toàn Năng đã làm các việc lớn cho tôi’ (c.49). Corrie ten Boom đã nói, 'Đức tin nhìn thấy điều không thấy, tin điều không thể tin và nhận được điều không thể.'

Tất nhiên, theo nhiều cách, Ma-ri là người duy nhất có được ân huệ đó. Tuy nhiên, theo một số cách, ân huệ mà bà nói đến có thể áp dụng cho bạn và tôi. Bạn được ban phước bởi Đấng Cứu Thế ('Cứu Chúa', c.47). Lời hứa Ngài sẽ làm cho kẻ đói được đầy thức ngon (c.53) – lời hứa ban ân huệ của Đức Chúa Trời để thỏa mãn cơn đói thuộc linh của bạn bằng sự chu cấp của Ngài – áp dụng cho bạn và tôi.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, cảm ơn Ngài đã ban đức tin phi thường cho Ma-ri khi bà tin rằng Ngài có thể làm được điều mà con người không thể làm được. Giống như Ma-ri, con muốn ân huệ của Chúa để dẫn con đến thờ phượng Ngài.

Cựu Ước

Dân Số Ký 2:10–3:51

10Đội quân Ru-bên đóng trại về hướng nam theo từng đơn vị dưới ngọn cờ mình. Thủ lĩnh của người Ru-bên là Ê-li-su, con trai của Sê-đêu, 11quân số của ông được bốn mươi sáu nghìn năm trăm người. 12Bộ tộc Si-mê-ôn đóng trại bên cạnh bộ tộc Ru-bên. Thủ lĩnh của người Si-mê-ôn là Sê-lu-mi-ên, con trai của Xu-ri-ha-đai, 13quân số của ông được năm mươi chín nghìn ba trăm người. 14Kế đến là bộ tộc Gát. Thủ lĩnh của người Gát là Ê-li-a-sáp, con trai của Rê-u-ên, 15quân số của ông được bốn mươi lăm nghìn sáu trăm năm mươi người. 16Tổng quân số dẫn đầu bởi trại quân Ru-bên, theo từng đơn vị là một trăm năm mươi mốt nghìn bốn trăm năm mươi người. Họ sẽ đi thứ nhì.
17Sau đó, Lều Hội kiến với trại quân Lê-vi sẽ đi giữa các trại quân khác. Trại quân Lê-vi sẽ ra đi theo thứ tự đã đóng trại, mỗi người theo từng đơn vị dưới ngọn cờ mình.
18Trại quân Ép-ra-im đóng về hướng tây theo từng đơn vị, dưới ngọn cờ mình. Thủ lĩnh của người Ép-ra-im là Ê-li-sa-ma, con trai A-mi-hút 19và quân số của ông được bốn mươi nghìn năm trăm người. 20Bộ tộc Ma-na-se đóng trại bên cạnh bộ tộc Ép-ra-im. Thủ lĩnh của người Ma-na-se là Ga-ma-li-ên, con trai của Phê-đát-su, 21quân số của ông được ba mươi hai nghìn hai trăm người. 22Kế đến là bộ tộc Bên-gia-min. Thủ lĩnh của người Bên-gia-min là A-bi-đan, con trai của Ghi-đeo-ni, 23quân số của ông được ba mươi lăm nghìn bốn trăm người. 24Như vậy, tổng quân số dẫn đầu bởi trại quân Ép-ra-im, theo từng đơn vị, là một trăm lẻ tám nghìn một trăm người. Họ sẽ đi thứ ba.
25Trại quân Đan đóng về hướng bắc theo từng đơn vị, dưới ngọn cờ của mình. Thủ lĩnh của người Đan là A-hi-ê-xe con trai của A-mi-sa-đai, 26quân số của ông được sáu mươi hai nghìn bảy trăm người. 27Bộ tộc A-se sẽ đóng trại bên cạnh bộ tộc Đan. Thủ lĩnh của người A-se là Pha-ghi-ên, con trai của Óc-ran, 28quân số của ông được bốn mươi mốt nghìn năm trăm người. 29Kế đến là bộ tộc Nép-ta-li. Thủ lĩnh của người Nép-ta-li là A-hi-ra, con trai của Ê-nan, 30quân số của ông được năm mươi ba nghìn bốn trăm người. 31Như vậy, tổng quân số dẫn đầu bởi trại quân Đan là một trăm năm mươi bảy nghìn sáu trăm người. Họ sẽ đi sau cùng, dưới ngọn cờ mình.
32Đó là những người Y-sơ-ra-ên được kiểm tra theo từng bộ tộc của họ. Tất cả những người trong các trại quân được kiểm tra theo từng đơn vị, là sáu trăm lẻ ba nghìn năm trăm năm mươi người. 33Nhưng người Lê-vi không được tính chung với những người Y-sơ-ra-ên khác như Đức Giê-hô-va đã truyền phán với Môi-se. 34Vậy dân Y-sơ-ra-ên làm đúng như lời Đức Giê-hô-va đã truyền phán qua Môi-se. Họ đóng trại theo từng đơn vị và ra đi theo từng gia tộc và gia đình của mình.”

Người Lê-vi

3 Trên đây là danh sách các gia tộc mà A-rôn và Môi-se ghi chép lại trong thời gian Đức Giê-hô-va phán với Môi-se trên núi Si-na-i.
2Tên các con trai của A-rôn là Na-đáp, trưởng nam, kế đến là A-bi-hu, Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma. 3Đó là tên các con trai A-rôn, những thầy tế lễ đã được xức dầu và lập lên để làm chức tế lễ. 4Nhưng Na-đáp và A-bi-hu đã chết trước mặt Đức Giê-hô-va khi hai người dâng một thứ lửa lạ lên Đức Giê-hô-va trong hoang mạc Si-na-i. Họ không có con nên chỉ có Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma làm chức tế lễ dưới sự giám sát của A-rôn là cha mình.
5Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: 6“Hãy đem bộ tộc Lê-vi trình diện trước thầy tế lễ A-rôn để phụ giúp người. 7Họ sẽ thi hành các công tác cho A-rôn và cho cả hội chúng nơi Lều Hội Kiến bằng cách phục vụ trong Đền Tạm. 8Họ cũng phải coi sóc tất cả dụng cụ của Lều Hội Kiến và làm công tác mà dân Y-sơ-ra-ên giao phó nơi Đền Tạm. 9Vậy con phải giao người Lê-vi cho A-rôn và các con trai người vì họ đã được tuyển chọn từ dân Y-sơ-ra-ên để giao cho A-rôn. 10Vậy con sẽ lập A-rôn và các con trai người làm chức tế lễ, còn những người khác đến gần sẽ bị xử tử.”
11Đức Giê-hô-va lại phán với Môi-se: 12“Ta đã chọn người Lê-vi từ trong dân Y-sơ-ra-ên để thay thế cho tất cả con đầu lòng trong dân Y-sơ-ra-ên. Vậy người Lê-vi sẽ thuộc về Ta, 13vì tất cả con đầu lòng đều thuộc về Ta. Vào ngày Ta trừng phạt các con đầu lòng ở Ai Cập, Ta đã biệt riêng cho Ta mọi con đầu lòng trong Y-sơ-ra-ên, bất luận loài người hay thú vật đều thuộc về Ta. Ta là Đức Giê-hô-va.”
14Đức Giê-hô-va cũng phán với Môi-se trong hoang mạc Si-na-i rằng: 15“Hãy kê khai con cháu Lê-vi tùy theo bộ tộc và gia tộc. Kê khai tất cả người nam từ một tháng trở lên.” 16Môi-se kiểm tra người Lê-vi đúng như Đức Giê-hô-va đã truyền phán với mình.
17Đây là tên các con trai của Lê-vi: Ghẹt-sôn, Kê-hát và Mê-ra-ri. 18Đây là tên các con trai của Ghẹt-sôn theo từng gia tộc mình: Líp-ni và Si-mê-i. 19Đây là các con trai của Kê-hát theo từng gia tộc mình: Am-ram, Dít-sa, Hếp-rôn và U-xi-ên. 20Các con trai của Mê-ra-ri theo từng gia tộc mình là: Mách-li và Mu-si. Đó là những gia tộc thuộc bộ tộc Lê-vi.
21Gia tộc Líp-ni và gia tộc Si-mê-i thuộc về Ghẹt-sôn. Đó là hai gia tộc của Ghẹt-sôn. 22Số người nam của họ từ một tháng tuổi trở lên được kiểm tra là bảy nghìn năm trăm người. 23Các gia tộc của Ghẹt-sôn đóng trại về hướng tây, phía sau Đền Tạm. 24Trưởng gia tộc Ghẹt-sôn là Ê-li-a-sáp, con trai của La-ên. 25Trách nhiệm của con cháu Ghẹt-sôn trong Lều Hội Kiến là coi sóc mọi vật thuộc về Đền Tạm, lều với các tấm phủ và tấm màn nơi cửa vào Lều Hội Kiến, 26các tấm màn của hành lang, tấm màn nơi cửa vào hành lang bao quanh Đền Tạm và bàn thờ cùng các dây thừng dùng cho Đền Tạm.
27Gia tộc Am-ram, gia tộc Dít-sa, gia tộc Hếp-rôn và gia tộc U-xi-ên là những gia tộc của Kê-hát. 28Số người nam của họ từ một tháng tuổi trở lên là tám nghìn sáu trăm người. Họ có trách nhiệm coi sóc nơi thánh. 29Các gia tộc thuộc con cháu Kê-hát đóng trại về hướng nam của Đền Tạm. 30Trưởng gia tộc Kê-hát là Ê-li-sa-phan, con trai của U-xi-ên. 31Người Kê-hát coi sóc Hòm Giao Ước, cái bàn, chân đèn, các bàn thờ, những vật dụng nơi thánh dùng vào việc thờ phượng, tấm màn và các vật dụng liên quan đến sự bảo trì nơi thánh. 32Đứng đầu các thủ lĩnh của người Lê-vi là Ê-lê-a-sa, con trai của thầy tế lễ A-rôn. Ông được chỉ định để giám sát những người coi sóc nơi thánh.
33Gia tộc Mách-li và gia tộc Mu-si thuộc về Mê-ra-ri. Đó là các gia tộc của Mê-ra-ri. 34Số những người nam của họ từ một tháng trở lên được kiểm tra là sáu nghìn hai trăm người. 35Trưởng gia tộc Mê-ra-ri là Xu-ri-ên, con trai của A-bi-hai. Con cháu Mê-ra-ri đóng trại về phía bắc của Đền Tạm. 36Họ có trách nhiệm coi sóc các khung của Đền Tạm, cây xà ngang, trụ, đế, những vật dụng và mọi thứ phụ thuộc; 37những trụ ở chung quanh hành lang và đế, cây cọc và dây thừng nữa.
38Những người đóng trại trước Đền Tạm về phía đông, trước Lều Hội Kiến về hướng mặt trời mọc, là Môi-se, A-rôn và các con trai ông. Họ có trách nhiệm thay cho dân Y-sơ-ra-ên để coi sóc nơi thánh. Những người khác đến gần đó sẽ bị xử tử. 39Tổng số người Lê-vi mà Môi-se và A-rôn kê khai theo lệnh của Đức Giê-hô-va, theo từng gia tộc, gồm tất cả người nam từ một tháng trở lên, là hai mươi hai nghìn người.

Việc chuộc lại các con đầu lòng

40Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Hãy kê khai tất cả con trưởng nam của dân Y-sơ-ra-ên từ một tháng trở lên và lập danh sách. 41Ta là Đức Giê-hô-va. Hãy chọn cho Ta những người Lê-vi thay thế cho các con trưởng nam trong dân Y-sơ-ra-ên, và cũng phải bắt súc vật của người Lê-vi thay thế cho mọi súc vật đầu lòng của dân Y-sơ-ra-ên.” 42Như vậy, Môi-se kiểm tra các con trưởng nam của dân Y-sơ-ra-ên đúng như Đức Giê-hô-va đã phán dặn. 43Tổng số con trưởng nam từ một tháng trở lên được kiểm tra là hai mươi hai nghìn hai trăm bảy mươi ba người.
44Đức Giê-hô-va cũng phán với Môi-se: 45“Hãy chọn những người Lê-vi thay thế cho tất cả con trưởng nam của dân Y-sơ-ra-ên và súc vật của người Lê-vi thay thế cho súc vật của dân Y-sơ-ra-ên. Như thế, những người Lê-vi sẽ thuộc về Ta. Ta là Đức Giê-hô-va. 46Để chuộc lại hai trăm bảy mươi ba con trưởng nam của dân Y-sơ-ra-ên vượt hơn số người Lê-vi 47thì con phải thu năm siếc-lơ bạc theo siếc-lơ nơi thánh; một siếc-lơ là hai chục ghê-ra. 48Con hãy giao số bạc chuộc lại những con trưởng nam vượt hơn đó cho A-rôn và các con trai người.” 49Vậy Môi-se thu số bạc chuộc lại những con trưởng nam vượt hơn số người Lê-vi đó. 50Số bạc mà ông thu từ những con trưởng nam của dân Y-sơ-ra-ên là một nghìn ba trăm sáu mươi lăm siếc-lơ theo siếc-lơ nơi thánh. 51Môi-se vâng lệnh Đức Giê-hô-va giao số bạc chuộc lại đó cho A-rôn và các con trai ông như Đức Giê-hô-va đã phán dặn.

Bình luận

Kinh nghiệm ân sủng sự hiện diện của Đức Chúa Trời ngay bây giờ

Những sự kiện này xảy ra vào lúc 'Đức Giê-hô-va phán với Môi-se tại trên núi Si-na-i' (3:1). Điều từng là ân huệ đặc biệt dành cho Môi-se giờ đây cũng mở ra cho tất cả chúng ta. Bạn cũng có thể kinh nghiệm ân sủng được Chúa trò chuyện với bạn.

Chúng ta cần phải hết sức cẩn trọng vì trách nhiệm và ơn phước lớn lao khi ở trong sự hiện diện Đức Chúa Trời ở giữa dân sự Ngài. 'Lều Hội kiến’ (nơi có sự hiện diện của Đức Chúa Trời) được dựng 'giữa các trại quân’ (2:17). Mọi người đều được giao một vai trò và trách nhiệm. Đặc biệt, một nhóm người chỉ định đã được lập làm chức tế lễ (người Lê-vi) để phục vụ trọn thời gian. Họ đã 'được xức dầu và lập lên để làm chức tế lễ' (3:3); họ đã được ‘tuyển trọn’ cho Đức Chúa Trời (c.9).

Đời sống của dân Chúa xoay quanh sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Đó là chìa khóa cho sự nhận dạng, thành công và ân huệ của họ.

Nhưng ở đây chúng ta thấy rằng sự hiện diện của Đức Chúa Trời với dân sự Ngài vẫn bị giới hạn. Dân sự bị cấm vào nơi thánh (c.10), trung tâm của sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Thông điệp đặc biệt của Tân Ước là sự tách biệt này hiện nay đã bị loại bỏ.

Bây giờ bạn có thể kinh nghiệm sự hiện diện trọn vẹn của Đức Chúa với bạn. Chủ đề về ơn phước của sự hiện diện của Đức Chúa Trời là chủ đề lặp đi lặp lại xuyên suốt Kinh thánh. Chúa Giê-su mang sự hiện diện của Đức Chúa Trời đến với chúng ta (Giăng 1:14a). Chúa Giê-su đã ban cho bạn Đức Thánh Linh, Ngài là sự hiện diện quyền năng của Đức Chúa Trời, Đấng đang ngự trong bạn (I Cô-rinh-tô 6:19). Chúng ta kinh nghiệm sự hiện diện của Đức Chúa Trời đặc biệt khi chúng ta nhóm lại với nhau (Ma-thi-ơ 18:20). Một ngày nào đó bạn sẽ được thấy sự hiện diện của Đức Chúa Trời cách mặt đối mặt (Khải Huyền 21:3, 22:4).

Cầu nguyện

Kính lạy Chúa, con cảm ơn Ngài rất nhiều vì ơn phước của sự hiện diện và ân huệ của Ngài. Xin Chúa phán dạy với con ngày hôm nay như với Môi-se.

Pippa chia sẻ

Nhìn vào Lu-ca 1: 39-56, chúng ta thấy rằng thật tốt khi có ai đó đi cùng chúng ta xa hơn một chút trong hành trình của cuộc đời. Đức Chúa Trời đã không để Ma-ri đơn độc một mình mang lấy sự mặc khải phi thường này; Ngài đã đem Ê-li-za-bet đến cùng bà. Chắc hẳn họ đã là nguồn khích lệ lớn lao cho nhau, cả hai đều mang thai trong hoàn cảnh kỳ diệu, biết rằng con trai của họ sẽ đến thế giới này để đạt được một sứ mệnh đáng kinh ngạc nào đó từ Chúa (và một trong họ đã thực sự là Chúa!).

reader

App

Tải xuống ứng dụng Kinh Thánh Trong Một Năm dành cho thiết bị iOS hoặc Android và đọc theo mỗi ngày.

reader

Email

Đăng ký ngay bây giờ để nhận Kinh thánh trong một năm trong hộp thư đến của bạn mỗi sáng. Bạn sẽ nhận được một email mỗi ngày.

reader

Website

Bắt đầu đọc sự tận tâm của ngày hôm nay ngay tại đây trên trang web BiOY.

Read now
reader

Book

Kinh thánh trong một năm bình luận có sẵn như là một cuốn sách.

Tham khảo

Corrie Ten Boom, Jesus is Victor, (Fleming H. Revell Company, 1984).

C. S. Lewis, Reflections on the Psalms, (Fount, 1993) tr.94–95.

Trừ khi có quy định khác, các trích dẫn Kinh thánh được lấy từ Kinh thánh, phiên bản quốc tế mới đã Anglicised, Bản quyền © 1979, 1984, 2011 Biblica, trước đây là Hiệp hội Kinh thánh quốc tế. Được sử dụng bởi sự cho phép của Hodder & amp; Stoughton Publishers, một công ty Hachette UK. Tất cả quyền được bảo lưu. NIV NIV là một nhãn hiệu đã đăng ký của Biblica. Thương hiệu Vương quốc Anh số 1448790.

Trích dẫn Kinh thánh được đánh dấu (AMP) được lấy từ Kinh thánh Amplified®, Bản quyền © 1954, 1958, 1962, 1964, 1965, 1987 bởi Quỹ Lockman. Được sử dụng bởi sự cho phép. (www.lockman.org)

Kinh thánh được đánh dấu (MSG) được lấy từ tin nhắn. Bản quyền © 1993, 1994, 1995, 1996, 2000, 2001, 2002. Được sử dụng bởi sự cho phép của Tập đoàn xuất bản Navpress.

This website stores data such as cookies to enable necessary site functionality and analytics. Find out more