Ngày 75

Bạn Nhận Được Ân Huệ của Chúa

Khôn ngoan Thi Thiên 34: 1-10
Tân ước Lu-ca 1: 26-38
Cựu Ước Dân Số Ký 1:1-2:9

Giới thiệu

Giới Thiệu

Trong năm đầu tiên học đại học, ở tuổi mười tám, tôi đã đọc cả Tân Ước trong vòng một tuần – từ Ma-thi-ơ đến Khải huyền – và được thuyết phục, 'đó chính là lẽ thật'. Nhưng tôi lưỡng lự đi theo Chúa Jesus, vì tôi nghĩ có thể cuộc sống của mình sẽ rất buồn tẻ và có thể tôi sẽ phải từ bỏ mọi thú vui. Trên thực tế, nó hoàn toàn ngược lại. Tôi đã tìm được điều gì đó thậm chí còn tốt hơn hạnh phúc.

Tất cả chúng ta đều muốn có cuộc sống hạnh phúc. Aristotle đã viết: ‘Hạnh phúc là ý nghĩa và mục đích của đời sống, là toàn bộ đích đến và cuối cùng của sự tồn tại của con người.’ Tuy nhiên, có điều gì đó thậm chí còn tốt hơn, vĩ đại hơn và sâu sắc hơn hạnh phúc. Hạnh phúc phụ thuộc vào những gì xảy ra - hoàn cảnh của chúng ta. Niềm vui sâu sắc hơn nhiều và không phải phụ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài của chúng ta. Đó là phước hạnh từ Chúa. Niềm vui là đặc điểm của sự tương giao với Chúa Jesus ngay cả khi Ngài chỉ là hài nhi còn trong lòng mẹ (Lu-ca 1:44).

Đoạn Tân Ước hôm nay sử dụng một từ Hy Lạp nghĩa là “được chúc phước”. Nó có nghĩa là người có đặc ân nhận được ân huệ của Đức Chúa Trời, được may mắn và hạnh phúc vì điều đó. Bản Kinh Thánh Amplified Bible mô tả đó là được “hạnh phúc, đáng ghen tị và thịnh vượng thuộc linh – với niềm vui trong cuộc sống và sự thỏa lòng về ân huệ và sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, bất kể hoàn cảnh bên ngoài của họ như thế nào” (Ma-thi-ơ 5:3, AMP).

Khôn ngoan

Thi Thiên 34: 1-10

1 Tôi sẽ chúc tụng Đức Giê-hô-va luôn luôn, Sự khen ngợi Ngài hằng ở nơi miệng tôi. 2 Linh hồn tôi sẽ khoe mình về Đức Giê-hô-va, Những người hiền từ sẽ nghe, và vui mừng. 3 Hãy cùng tôi tôn trọng Đức Giê-hô-va, Chúng ta hãy cùng nhau tôn cao danh của Ngài. 4 Tôi đã tìm cầu Đức Giê-hô-va, Ngài đáp lại tôi, Giải cứu tôi khỏi các đều sợ hãi. 5 Chúng ngửa trông Chúa thì được chói-sáng, Mặt họ chẳng hề bị hổ thẹn. 6 Kẻ khốn cùng nầy có kêu cầu, Đức Giê-hô-va bèn nhậm lời người, Giải cứu người khỏi các điều gian truân. 7 Thiên sứ Đức Giê-hô-va đóng lại chung quanh những kẻ kính sợ Ngài, Và giải cứu họ. 8 Khá nếm thử xem Đức Giê-hô-va tốt lành dường bao! Phước cho người nào nương náu mình nơi Ngài! 9 Hỡi các thánh của Đức Giê-hô-va, hãy kính sợ Ngài; Vì kẻ nào kính sợ Ngài chẳng thiếu thốn gì hết.

10 Sư tử tơ bị thiếu kém, và đói; Nhưng người nào tìm cầu Đức Giê-hô-va sẽ chẳng thiếu của tốt gì.

Bình luận

Ngợi khen Chúa vì mọi ân huệ của Ngài

Trong ba mươi lăm năm qua, Pippa và tôi đã đi khắp thế giới. Đôi khi chúng tôi được mời một số thức ăn trông khá khác lạ mà chúng tôi chưa bao giờ ăn hoặc thậm chí chưa từng nhìn thấy trước đây. Kết quả thường là tôi lại thấy chúng rất ngon. Chỉ có một cách duy nhất để biết điều đó – hãy 'nếm và xem'.

Đa-vít nói, ‘Khá nếm thử xem Đức Giê-hô-va tốt lành dường bao! Phước cho người nào nương náu mình nơi Ngài!’ (c.8). Đó là điều tôi đã kinh nghiệm khi bắt đầu theo Chúa Jesus. Kể từ đó, tôi luôn mong muốn gửi thông điệp đó đến nhiều người nhất có thể và nói với họ: ‘Hãy cùng tôi truyền bá tin lành này; cùng nhau nói ra’ (v.3, MSG).

Giống như Đa-vít, hãy ca ngợi Chúa vì tất cả những ân huệ qua mối thông công với Đức Chúa Trời đã mang lại cho cuộc sống của bạn. Tôn ngợi Chúa ‘mọi lúc’ (c.1) không chỉ khi mọi việc đang diễn ra tốt đẹp hoặc khi thuận tiện để làm như vậy: ‘Tôi chúc tụng Chúa mỗi khi có cơ hội; phổi của tôi rộng mở với lời ca ngợi Ngài. Tôi sống và hít thở Chúa; nếu mọi việc không suôn sẻ, hãy nghe điều này và vui mừng’ (c.1–2, MSG).

Tôn ngợi Chúa vì Ngài:

1. Đáp lời cầu nguyện

Đa-vít viết: 'Tôi đã tìm cầu Đức Giê-hô-va, Ngài đáp lại tôi' (c.4a). Chúa đã giúp đỡ ông trong những lúc gian truân, ‘Kẻ khốn cùng nầy có kêu cầu, Đức Giê-hô-va bèn nhậm lời người, Giải cứu người khỏi các điều gian truân.’ (c.6, MSG).

2.Tự do khỏi sự sợ hãi

Đa-vít tiếp tục giải thích chính xác cách Đức Chúa Trời đã đáp lời cầu nguyện của ông trong trường hợp này: “Ngài đã giải cứu tôi khỏi các điều sợ hãi” (c.4b).

Những ai kính sợ Đức Chúa Trời được giải thoát khỏi mọi sự sợ hãi của họ. 'Kính sợ Chúa (c.9a) tương đương với 'tìm kiếm Chúa' (so sánh câu 9b, 'những kẻ kính sợ Ngài chẳng thiếu thốn gì hết' với câu 10b, 'Nhưng người nào tìm cầu Đức Giê-hô-va sẽ chẳng thiếu của tốt gì.' ).

Đa-vít không nói rằng chúng ta sẽ không thiếu thốn gì, nhưng ông nói: “Nhưng người nào tìm cầu Đức Giê-hô-va sẽ chẳng thiếu của tốt gì” (c.10b). Hoặc như bản Kinh Thánh The Message đã viết, 'Sự thờ phượng Chúa mở ra cánh cửa cho mọi sự tốt lành của Ngài' (c.9b, MSG).

3. Những khuôn mặt rạng rỡ

Một trong những điều tôi nhận thấy, ngay cả trước khi tôi là một Cơ Đốc nhân, là vẻ rạng rỡ trên khuôn mặt của nhiều con dân Chúa. Họ "ngửa trông Chúa thì được chói-sáng, Mặt họ chẳng hề bị hổ thẹn’ (c.5).

4. Sự bảo vệ thiên thượng

‘Thiên sứ Đức Giê-hô-va đóng lại chung quanh những kẻ kính sợ Ngài, Và giải cứu họ.’ (c.7, MSG). Thật là một ý nghĩ tuyệt vời khi bạn cầu nguyện và thờ phượng Đức Chúa Trời, bạn sẽ kinh nghiệm sự bảo vệ thiên thượng.

“Mọi niềm vui dâng trào vào lời tôn ngợi. ' C.S. Lewis đã viết: '... niềm vui sẽ không trọn vẹn cho đến khi nó được bày tỏ ra.'

Cầu nguyện

Kính lạy Chúa, con thật biết ơn vì Ngài hứa sẽ giải cứu con khỏi mọi nỗi sợ hãi của con. Cảm ơn Chúa vì thiên sứ của Ngài đóng lại xung quanh để bảo vệ con như con cầu nguyện. Lạy Chúa, con cảm tạ, ngợi khen và thờ phượng Chúa hôm nay.

Tân ước

Lu-ca 1: 26-38

Trong những ngày đó, Ma-ri chờ dậy, lật đật đi trong miền núi, đến một thành về xứ Giu-đa, 40 vào nhà Xa-cha-ri mà chào Ê-li-sa-bét. 41 Vả, Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng Ma-ri chào, con nhỏ ở trong lòng liền nhảy nhót; và Ê-li-sa-bét được đầy Đức Thánh Linh, 42 bèn cất tiếng kêu rằng: Ngươi có phước trong đám đàn bà, thai trong lòng ngươi cũng được phước. 43 Nhân đâu ta được sự vẻ vang nầy, là mẹ Chúa ta đến thăm ta? 44 Bởi vì tai ta mới nghe tiếng ngươi chào, thì con nhỏ ở trong lòng ta liền nhảy mừng. 45 Phước cho người đã tin, vì lời Chúa truyền cho sẽ được ứng nghiệm!

46 Ma-ri bèn nói rằng: Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, 47 Tâm thần tôi mừng rỡ trong Đức Chúa Trời, là Cứu Chú tôi. 48 Vì Ngài đã đoái đến sự hèn hạ của tôi tớ Ngài. Nầy, từ rày về sau, muôn đời sẽ khen tôi là kẻ có phước; 49 Bởi Đấng Toàn Năng đã làm các việc lớn cho tôi. Danh Ngài là thánh, 50 Và Ngài thương xót kẻ kính sợ Ngài từ đời nầy sang đời kia. 51 Ngài đã dùng cánh tay mình để tỏ ra quyền phép; Và phá tan mưu của kẻ kiêu ngạo toan trong lòng. 52 Ngài đã cách người có quyền khỏi ngôi họ, Và nhắc kẻ khiêm nhượng lên. 53 Ngài đã làm cho kẻ đói được đầy thức ngon, Và đuổi kẻ giàu về tay không. 54 Ngài đã vùa giúp Y-sơ-ra-ên, tôi tớ Ngài, Và nhớ lại sự thương xót mình. Đối với Áp-ra-ham cùng con cháu người luôn luôn, 55 Như Ngài đã phán cùng tổ phụ chúng ta vậy.

56 Ma-ri ở với Ê-li-sa-bét chừng ba tháng, rồi trở về nhà mình.

Bình luận

Tin lời hứa ban ơn của Đức Chúa Trời

Ma-ri là người “được ơn” (1:28). Thiên sứ nói với bà rằng ‘ngươi đã được ơn trước mặt Đức Chúa Trời". (c.30).

Đoạn văn này tràn ngập sự ca ngợi khi Ê-li-sa-bét và Ma-ri nhận ra những cách mà Chúa đã ban ơn trên họ.

Bà Ê-li-sa-bét, tràn đầy Đức Thánh Linh, hát về Ma-ri: ‘Ngươi có phước trong đám đàn bà, thai trong lòng ngươi cũng được phước. 43 Nhân đâu ta được sự vẻ vang nầy, là mẹ Chúa ta đến thăm ta? 44 Bởi vì tai ta mới nghe tiếng ngươi chào, thì con nhỏ ở trong lòng ta liền nhảy mừng. 45 Phước cho người đã tin, vì lời Chúa truyền cho sẽ được ứng nghiệm!!’ (c. 42-45).

Việc nhấn mạnh vào đức tin của Ma-ri rất quan trọng, vì nhiều người có lẽ sẽ phản ứng rất khác trong hoàn cảnh của bà. Ân huệ của Đức Chúa Trời không có nghĩa là mọi vấn đề của Ma-ri biến mất – bà đang mang thai và chưa lập gia đình trong một nền văn hóa mà điều đó sẽ gây ra rất nhiều thử thách.

Tuy nhiên, bà chọn để nhận ra những cách mà Chúa đã ban phước cho bà. Bà đón nhận lời chào của Ê-li-sa-bét và tôn ngợi Chúa bài ca được biết đến với cái tên 'Magnificat'. Trong bài ca đó, bà bày tỏ "tâm thần tôi mừng rỡ trong Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa tôi’ (c.47) vì tất cả những điều mà ‘Đấng Toàn Năng đã làm các việc lớn cho tôi. Danh Ngài là thánh’ (c.49).

Theo một cách nào đó, ân huệ dành cho Ma-ri là duy nhất: “Bà có phước hơn mọi người nữ” (c. 42a). Ma-ri là:

1. Mẹ của Chúa Jesus

Ma-ri đã mang thai Con Đức Chúa Trời, Kinh Thánh chép rằng Chúa Jesus là "thai trong lòng" mẹ cũng được phước (c.42b). Khi bà Ê-li-sa-bét đến trong sự hiện diện của Hài Nhi Jesus, bà được “được đầy Đức Thánh Linh” (c.41). “Vui mừng” là phản ứng đặc trưng khi đứng trước Chúa Jesus – ngay cả “con nhỏ ở trong lòng liền nhảy nhót” với niềm vui trong bụng mẹ (c.44).

2. Được khen ngợi trong tất cả các thế hệ tương lai

‘Từ nay muôn đời sẽ khen tôi là kẻ có phước’ (c.48). Kể từ đó, Ma-ri được gọi là "Người Nữ được phước".

DNA của Chúa Jesus đến từ sự kết hợp của Mary và Chúa Thánh Linh. Ngài là con trai về mặt di truyền của Ma-ri. Ngài có lẽ trông giống như bà. Chúa Jesus có thể cũng có một số đặc điểm thuộc thể của mẹ Ngài. Bà đã chăm sóc Ngài. Bà đã huấn luyện và nuôi dạy Ngài. Trong ba mươi năm, bà là người phụ nữ có ảnh hưởng lớn đến cuộc đời Ngài.

3. Đỉnh cao của niềm tin

‘Phước cho người đã tin, vì lời Chúa truyền cho sẽ được ứng nghiệm!’ (c.45). Ma-ri tin rằng những gì Chúa đã nói với bà – điều gì đó duy nhất và không thể đối với con người – sẽ xảy ra. Như thiên sứ đã nói với Ma-ri: “không việc chi Đức Chúa Trời chẳng làm được” (c.37).

Đối với Ma-ri, thật là tốt lành khi điều mà Đức Chúa Trời hứa cho bà đã thành hiện thực: ‘Bởi Đấng Toàn Năng đã làm các việc lớn cho tôi’ (c.49). Corrie ten Boom đã nói, 'Niềm tin nhìn thấy điều vô hình, tin điều không thể tin được và nhận được điều không thể.'

Tất nhiên, theo nhiều cách, Ma-ri là người duy nhất. Tuy nhiên, theo một số cách, ân huệ mà bà nói đến có thể áp dụng cho bạn và tôi. Bạn được ban phước bởi Đấng Cứu Thế ('Cứu Chúa', v.47). Lời hứa Ngài sẽ làm cho kẻ đói được đầy thức ngon (c.53) – lời hứa ban ân huệ của Đức Chúa Trời để thỏa mãn cơn đói thuộc linh của bạn bằng sự chu cấp của Ngài – áp dụng cho bạn và tôi.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, cảm ơn Ngài đã ban đức tin phi thường cho Ma-ri khi bà tin rằng Ngài có thể làm được điều mà con người không thể làm được. Giống như Ma-ri, con muốn ân huệ của Chúa để dẫn tôi đến tôn thờ Ngài.

Cựu Ước

Dân Số Ký 1:1-2:9

10 Ngọn cờ của trại quân Ru-bên và những đội ngũ mình, phải đóng về hướng nam. Quan trưởng của người Ru-bên là Ê-li-su, con trai của Sê-đêu; 11 và quân đội người, cứ theo kê sổ, cộng bốn mươi sáu ngàn năm trăm người. 12 Chi phái Si-mê-ôn phải đóng trại bên Ru-bên; quan trưởng của người Si-mê-ôn là Sê-lu-mi-ên, con trai của Xu-ri-ha-đai; 13 và quân đội người, cứ theo kê sổ, cộng năm mươi chín ngàn ba trăm người. 14 Kế đến chi phái Gát; các quan trưởng của người Gát là Ê-li-a-sáp, con trai của Rê-u-ên; 15 và quân đội người, cứ theo kê sổ, cộng bốn mươi lăm ngàn sáu trăm năm mươi người. 16 Vậy, các người đã kê sổ theo trại quân Ru-bên, từng đội ngũ, cộng một trăm năm mươi mốt ngàn bốn trăm năm mươi người. Họ phải đi thứ nhì. 17 Sau ấy, hội mạc sẽ đi với trại quân Lê-vi, ở giữa các trại quân khác; trại quân Lê-vi sẽ đi theo thứ tự như đã đóng, mỗi người theo hàng ngũ và theo ngọn cờ mình. 18 Ngọn cờ của trại quân Ép-ra-im và những quân đội người phải đóng về hướng tây; quan trưởng của người Ép-ra-im là Ê-li-sa-ma, con trai A-mi-hút; 19 và quân đội người, cứ theo kê sổ, cộng bốn mươi ngàn năm trăm người. 20 Chi phái Ma-na-se phải đóng trại bên Ép-ra-im; quan trưởng của người Ma-na-se là Ga-ma-li-ên, con trai của Phê-đát-su; 21 và quân đội người, cứ theo kê sổ, cộng ba mươi hai ngàn hai trăm người. 22 Kế đến chi phái Bên-gia-min; quan trưởng của người Bên-gia-min là A-bi-đan, con trai của Ghi-đeo-ni; 23 và quân đội người, cứ theo kê sổ, cộng ba mươi lăm ngàn bốn trăm người. 24 Vậy, các người đã kê sổ theo trại quân Ép-ra-im, từng đội ngũ, cộng một trăm tám ngàn một trăm người. Họ phải đi thứ ba. 25 Ngọn cờ của trại quân Đan và những quân đội họ phải đóng về hướng bắc. Quan trưởng của người Đan là A-hi-ê-xe, con trai của A-mi-sa-đai; 26 và quân đội người, cứ theo kê sổ, cộng sáu mươi hai ngàn bảy trăm người. 27 Chi phái A-se phải đóng trại bên Đan; quan trưởng của người A-se là Pha-ghi-ên, con trai của Óc-ran; 28 và quân đội người, cứ theo kê sổ, cộng bốn mươi mốt ngàn năm trăm người. 29 Kế đến chi phái Nép-ta-li; quan trưởng của người Nép-ta-li là A-hi-ra, con trai của Ê-nan; 30 và quân đội người, cứ theo kê sổ, cộng năm mươi ba ngàn bốn trăm người. 31 Vậy, các người đã kê sổ theo trại quân Đan, cộng một trăm năm mươi bảy ngàn sáu trăm người. Họ theo ngọn cờ mình phải đi hậu binh. 32 Đó là những người trong dân Y-sơ-ra-ên mà người ta tu bộ tùy theo tông tộc mình. Trong các trại quân hết thảy người đã kê sổ từng đội ngũ là sáu trăm ba ngàn năm trăm năm mươi người. 33 Nhưng người Lê-vi không nhập sổ chung với dân Y-sơ-ra-ên, tùy theo mạng của Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se. 34 Dân Y-sơ-ra-ên y theo mọi điều Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se, bèn đóng trại tùy theo ngọn cờ mình, và mỗi người ra đi tùy theo họ hàng và tông tộc mình.

3 \t1Nầy là dòng dõi của A-rôn và Môi-se, về ngày Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se tại trên núi Si-na-i. 2 Nầy là tên các con trai A-rôn: Trưởng nam là Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa, và Y-tha-ma. 3 Đó là tên các con trai A-rôn, tức những thầy tế lễ đã chịu phép xức dầu, và được lập lên để làm chức tế lễ. 4 Vả, Na-đáp và A-bi-hu đã thác trước mặt Đức Giê-hô-va khi hai người dâng một thứ lửa lạ trước mặt Đức Giê-hô-va tại trong đồng vắng Si-na-i. Hai người nầy không có con. Còn Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma làm chức tế lễ trước mặt A-rôn, là cha mình. 5 Đức Giê-hô-va bèn phán cùng Môi-se rằng: 6 Hãy khiến chi phái Lê-vi lại gần, đặt trước thầy tế lễ A-rôn, để người Lê-vi phục sự người. 7 Người Lê-vi sẽ giữ chức phận của người và chức phận của cả hội chúng về trước hội mạc mà làm những công việc của đền tạm. 8 Cũng phải coi sóc hết thảy đồ đạc của hội mạc và mọi vật chi dân Y-sơ-ra-ên giao cho đặng dùng làm công việc của đền tạm. 9 Vậy, ngươi phải giao người Lê-vi cho A-rôn và cho các con trai người; vì đã lấy họ từ trong vòng dân Y-sơ-ra-ên mà ban trọn cho A-rôn rồi. 10 Vậy, ngươi sẽ lập A-rôn và các con trai người, để làm chức tế lễ; người ngoại đến gần sẽ bị xử tử. 11 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: 12 Nầy, từ giữa dân Y-sơ-ra-ên ta chọn lấy người Lê-vi thế cho hết thảy con đầu lòng của dân Y-sơ-ra-ên; vậy, người Lê-vi sẽ thuộc về ta. 13 Vì hết thảy con đầu lòng đều thuộc về ta; ngày xưa khi ta hành hại các con đầu lòng trong xứ Ê-díp-tô, ta đã biệt riêng ra thánh cho ta hết thảy con đầu lòng trong Y-sơ-ra-ên, bất luận loài người hay thú vật; chúng nó đều sẽ thuộc về ta. Ta là Đức Giê-hô-va. 14 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se tại trong đồng vắng Si-na-i mà rằng: 15 Hãy kê sổ con cháu Lê-vi, tùy theo tông tộc và họ hàng chúng nó, kê hết thảy nam đinh từ một tháng sắp lên. 16 Môi-se bèn kê sổ người Lê-vi theo mạng của Đức Giê-hô-va, y như Ngài đã phán dặn người vậy. 17 Đây là các con trai của Lê-vi kể từng tên: Ghẹt-sôn, Kê-hát, và Mê-ra-ri. 18 Đây là tên của các con trai Ghẹt-sôn, tùy theo họ hàng mình: Líp-ni và Si-mê-y. 19 Đây là các con trai của Kê-hát tùy theo họ hàng mình: Am-ram, Dít-sa, Hếp-rôn và U-xi-ên; 20 và các con trai của Mê-ra-ri, tùy theo họ hàng mình, là: Mách-li và Mu-si. Đó là những họ hàng của người Lê-vi, tùy theo tông tộc của họ. 21 Họ hàng Líp-ni và họ hàng Si-mê-y thuộc về Ghẹt-sôn. Đó là hai họ hàng của Ghẹt-sôn vậy. 22 Những người trong họ Ghẹt-sôn được tu bộ, kể mọi nam đinh từ một tháng sắp lên, số là bảy ngàn năm trăm người. 23 Các họ hàng của Ghẹt-sôn đóng trại về phía tây, sau đền tạm. 24 Quan trưởng của tông tộc Ghẹt-sôn là Ê-li-a-sáp, con trai của La-ên. 25 Chức phận của con cháu Ghẹt-sôn trong hội mạc là coi sóc mọi vật chi can đến đền tạm và Trại, tức là tấm bong của Trại và bức màn của cửa hội mạc, 26 các bố vi của hành lang, và bức màn của cửa hành lang bao phủ chung quanh đền tạm và bàn thờ, cùng dây chạc về các việc của đền tạm. 27 Họ hàng Am-ram, họ hàng Dít-sa, họ hàng Hếp-rôn và họ hàng U-xi-ên thuộc về Kê-hát. Đó là những họ hàng của Kê-hát. 28 Cứ kể mọi nam đinh từ một tháng sắp lên, số là tám ngàn sáu trăm người có chức phận săn sóc nơi thánh. 29 Các họ hàng của con cháu Kê-hát đóng trại bên hông đền tạm về phía nam. 30 Quan trưởng của tông tộc Kê-hát là Ê-li-sa-phan, con trai của U-xi-ên. 31 Người Kê-hát coi sóc hòm bảng chứng, cái bàn, chân đèn, các bàn thờ, và những đồ đạc của nơi thánh để dùng về việc thờ phượng, luôn với bức màn và các vật chi can đến. 32 Tổng trưởng của người Lê-vi là Ê-lê-a-sa, con trai của thầy tế lễ A-rôn, được đặt lên quản trị những người coi sóc nơi thánh. 33 Họ hàng Mách-li và họ hàng Mu-si thuộc về Mê-ra-ri. Đó là hai họ hàng của Mê-ra-ri vậy. 34 Những người trong bọn Mê-ra-ri được tu bộ, kể mọi nam đinh từ một tháng sắp lên, số là sáu ngàn hai trăm người. 35 Quan trưởng của tông tộc Mê-ra-ri là Xu-ri-ên, con trai của A-bi-hai. Con cháu Mê-ra-ri đóng trại bên hông đền tạm về phía bắc, 36 có phần coi sóc các tấm ván của đền tạm, cây xà ngang, trụ, lỗ trụ, những đồ đạc, và mọi việc thuộc về đó, 37 những trụ ở chung quanh hành lang và lỗ trụ, những nọc và dây chạc của trụ. 38 Những người đóng trại trước đền tạm về phía đông, tức trước hội mạc về phía mặt trời mọc, là Môi-se, A-rôn và các con trai người, có chức phận săn sóc nơi thánh thế cho dân Y-sơ-ra-ên. Người ngoại đến gần sẽ bị xử tử. 39 Hết thảy người Lê-vi mà Môi-se và A-rôn vâng mạng Đức Giê-hô-va tu bộ, tùy theo họ hàng của họ, kể mọi nam đinh từ một tháng sắp lên, số là hai mươi hai ngàn người. 40 Đoạn, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Hãy kê sổ hết thảy con trưởng nam của dân Y-sơ-ra-ên, từ một tháng sắp lên, và hãy dựng sổ tên chúng nó. 41 Ta là Đức Giê-hô-va. Ngươi phải chọn lấy cho ta người Lê-vi thế cho các con trưởng nam trong dân Y-sơ-ra-ên; cũng phải bắt súc vật của người Lê-vi thế cho mọi con súc vật đầu lòng của dân Y-sơ-ra-ên. 42 Vậy, Môi-se kê sổ các con trưởng nam của dân Y-sơ-ra-ên, y như Đức Giê-hô-va đã phán dặn người. 43 Hết thảy những con trưởng nam kể từng tên, từ tuổi một tháng sắp lên, theo sự kê sổ họ, là hai mươi hai ngàn hai trăm bảy mươi ba người. 44 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: 45 Hãy chọn lấy những người Lê-vi thế cho hết thảy con trưởng nam của dân Y-sơ-ra-ên, và súc vật của người Lê-vi thế cho súc vật của dân Y-sơ-ra-ên; vậy, các người Lê-vi sẽ thuộc về ta. Ta là Đức Giê-hô-va. 46 Còn về sự chuộc lại con trưởng nam của dân Y-sơ-ra-ên, kê sổ hơn số người Lê-vi hai trăm bảy mươi ba, 47 thì ngươi phải thâu mỗi người năm siếc-lơ, tùy theo siếc-lơ nơi thánh; một siếc-lơ là hai chục ghê-ra. 48 Ngươi phải giao bạc cho A-rôn và các con trai người; ấy là bạc chuộc lại những con trưởng nam trổi hơn. 49 Vậy, Môi-se thâu bạc chuộc lại những con trưởng nam trổi hơn số người Lê-vi đã chuộc lại. 50 Bạc mà người thâu về những con trưởng nam của dân Y-sơ-ra-ên, cộng được một ngàn ba trăm sáu mươi lăm siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh. 51 Môi-se vâng mạng Đức Giê-hô-va, giao bạc chuộc lại cho A-rôn và các con trai người, y như Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se.

Bình luận

Kinh nghiệm ân sủng sự hiện diện của Đức Chúa Trời ngay bây giờ

Những sự kiện này xảy ra vào lúc “Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se tại trên núi Si-na-i” (3:1). Điều từng là ân huệ đặc biệt dành cho Môi-se giờ đây cũng mở ra cho tất cả chúng ta. Bạn cũng có thể kinh nghiệm ân sủng được Chúa nói chuyện với bạn.

Chúng ta cần phải hết sức cẩn trọng vì trách nhiệm và ơn phước lớn lao khi ở trong sự hiện diện Đức Chúa Trời ở giữa dân sự Ngài. Lều ‘Hội Mạc’ (nơi có sự hiện diện của Đức Chúa Trời) được dựng 'ở giữa các trại quân’ (2:17). Mọi người đều được giao một vai trò và trách nhiệm. Đặc biệt, một nhóm người chỉ định đã được lập làm chức tế lễ (người Lê-vi) để phục vụ trọn thời gian. Họ đã “chịu phép xức dầu, và được lập lên để làm chức tế lễ.” (3:3); họ đã được ‘ban trọn’ cho Đức Chúa Trời (c.9).

Cuộc sống của dân sự Chúa thực sự ở trong sự hiện diện của Ngài. Đó chính là chìa khóa cho bản sắc, thành công và ân huệ của họ.

Nhưng ở đây chúng ta thấy rằng sự hiện diện của Đức Chúa Trời với dân sự Ngài vẫn bị giới hạn. Dân sự bị cấm vào nơi thánh (c.10), trung tâm của sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Thông điệp đặc biệt của Tân Ước là sự cách biệt này hiện nay đã bị loại bỏ.

Bây giờ bạn có thể kinh nghiệm sự hiện diện trọn vẹn của Đức Chúa với bạn. Chủ đề về ơn phước của Đức Chúa Trời hiện diện là chủ đề lặp đi lặp lại xuyên suốt Kinh thánh. Chúa Jesus mang sự hiện diện của Đức Chúa Trời đến với chúng ta (Giăng 1:14a). Chúa Jesus đã ban cho bạn Đức Thánh Linh, Ngài là sự hiện diện quyền năng của Đức Chúa Trời, Đấng đang ngự trong bạn (1 Cô-rinh-tô 6:19). Chúng ta kinh nghiệm sự hiện diện của Đức Chúa Trời đặc biệt khi chúng ta nhóm lại với nhau (Ma-thi-ơ 18:20). Một ngày nào đó bạn sẽ được thấy sự hiện diện của Đức Chúa Trời cách mặt đối mặt (Khải Huyền 21:3, 22:4).

Cầu nguyện

Kính lạy Chúa, con cảm ơn Ngài rất nhiều vì ơn phước của sự hiện diện và ân huệ của Ngài. Xin Chúa phán dạy với con ngày hôm nay như với Môi-se.

Pippa chia sẻ

Lu-ca 1: 39-56

Có ai đó đi cùng chúng ta xa hơn một chút trong hành trình của cuộc đời là một điều tốt. Đức Chúa Trời đã không để Ma-ri đơn độc một mình mang lấy sự mặc khải phi thường này; Ngài đã đem Ê-li-za-bet đến cùng bà. Chắc hẳn họ đã là nguồn khích lệ lớn lao cho nhau, cả hai đều mang thai trong hoàn cảnh kỳ diệu, biết rằng con trai của họ sẽ đến thế giới này để đạt được một sứ mệnh đáng kinh ngạc nào đó từ Chúa (và một trong họ thực sự là chính Ngài!).

reader

App

Tải xuống ứng dụng Kinh Thánh Trong Một Năm dành cho thiết bị iOS hoặc Android và đọc theo mỗi ngày.

reader

Email

Đăng ký ngay bây giờ để nhận Kinh thánh trong một năm trong hộp thư đến của bạn mỗi sáng. Bạn sẽ nhận được một email mỗi ngày.

Sign up now
reader

Website

Bắt đầu đọc sự tận tâm của ngày hôm nay ngay tại đây trên trang web BiOY.

Read now
reader

Book

Kinh thánh trong một năm bình luận có sẵn như là một cuốn sách.

Tham khảo

Tài Liệu Tham Khảo

The One Year® là nhãn hiệu đã đăng ký của Tyndale House Publishers. Được sử dụng bởi sự cho phép.

Corrie Ten Boom, Jesus is Victor, (Công ty Fleming H. Revell, 1984).

C. S. Lewis, Suy Gẫm Thi Thiên, (Fount, 1993) tr.94–95.

Trừ khi có quy định khác, các trích dẫn Kinh thánh được lấy từ Kinh Thánh, Phiên bản quốc tế mới được Anh hóa, Bản quyền © 1979, 1984, 2011 Biblica, trước đây là Hiệp hội Kinh thánh Quốc tế. Được sử dụng dưới sự cho phép của Hodder & Stoughton Publishers, một công ty của Hachette UK. Đã đăng ký Bản quyền. 'NIV' là nhãn hiệu đã đăng ký của Biblica. Nhãn hiệu Vương quốc Anh số 1448790.

Các trích dẫn Kinh thánh được đánh dấu (AMP) lấy từ Kinh thánh Amplified®, Bản quyền © 1954, 1958, 1962, 1964, 1965, 1987 của The Lockman Foundation. Được sử dụng bởi sự cho phép. (www.Lockman.org)

Thánh Kinh được đánh dấu (MSG) lấy từ The Message. Bản quyền © 1993, 1994, 1995, 1996, 2000, 2001, 2002. Được sử dụng dưới sự cho phép của NavPress Publishing Group.

This website stores data such as cookies to enable necessary site functionality and analytics. Find out more