Ngày 48

Mài Giũa Lương Tâm Của Bạn

Khôn ngoan Châm ngôn 5:1-14
Tân ước Mác 2:18 - 3:30
Cựu Ước Xuất Ai Cập Ký 21:1-22:31

Giới thiệu

Chúa Giê-su đặt câu hỏi trong phân đoạn Kinh Thánh hôm nay, 'Trong ngày sa-bát được phép làm việc lành hay việc dữ, nên cứu người hay giết người?' (Mác 3:4).

Tôi đã từng là một người vô thần. Tôi tin rằng cơ thể và tâm trí của chúng ta và hoàn cảnh mà chúng ta sinh ra quyết định mọi hành động của chúng ta. Theo logic, đối với tôi thì dường như nếu không có Đức Chúa Trời thì không có nền tảng tuyệt đối nào cho đạo đức. Do đó, theo logic này, không có 'việc lành' hay 'việc dữ' tuyệt đối.

Tuy nhiên, trong sâu thẳm, tôi biết rằng có một thứ gọi là 'thiện' và 'ác'. Mặc dù tôi không tin vào Chúa, nhưng tôi đã sử dụng những từ đó. Tuy nhiên, mãi cho đến khi tôi gặp Chúa Giê-su, tôi mới hiểu rằng có một Đức Chúa Trời đã tạo ra một thế giới có luân lý. Trong Kinh Thánh, và đặc biệt là nơi nhân tánh của Chúa Giê-su, bản chất của thiệnác được tiết lộ.

Chúa đã ban cho chúng ta một lương tâm để chúng ta biết rằng một số điều là “tốt” và những điều khác là “xấu”. Nhưng lương tâm của chúng ta có thể bị chai lì và chúng cần được mài giũa bởi lẽ thật khách quan.

Khôn ngoan

Châm ngôn 5:1-14

Khuyên tránh dâm phụ

1Hỡi con ta, hãy chú tâm đến sự khôn ngoan ta, \t\tHãy lắng tai nghe lời thông sáng của ta;

2Để con giữ được sự thận trọng, \t\tVà môi con bảo tồn tri thức.

3Vì môi kẻ dâm phụ tiết ra mật ngọt, \t\tMiệng lưỡi nó trơn hơn dầu;

4Nhưng cuối cùng, nó đắng như ngải cứu, \t\tSắc như gươm hai lưỡi.

5Đôi chân kẻ dâm phụ đi vào cõi chết; \t\tCác bước nó dẫn xuống âm phủ.

6Nó không hướng đến con đường sự sống; \t\tCác lối nó lầm lạc mà nó chẳng biết.

7Vậy bây giờ, hỡi các con, hãy lắng nghe ta; \t\tĐừng từ bỏ các lời của miệng ta.

8Hãy giữ đường lối con cách xa nó, \t\tĐừng đến gần lối vào nhà nó,

9Kẻo con trao thanh danh mình cho người khác \t\tVà nộp năm tháng đời con cho kẻ bạo tàn.

10Kẻo người ngoài sẽ được no nê tài sản của con, \t\t\tVà công lao con sẽ vào nhà kẻ xa lạ.

11Đến cuối cùng, con phải rên xiết, \t\t\tKhi thân xác con bị tiêu hao.

12Con phải kêu lên: “Sao tôi đã ghét lời khuyên dạy, \t\t\tVà lòng tôi khinh thường sự quở trách!

13Sao tôi không vâng lời thầy giáo, \t\t\tVà chẳng lắng tai nghe những người dạy dỗ mình!

14Tôi chịu hầu hết mọi tai ương \t\t\tGiữa hội chúng và cộng đoàn.”

Bình luận

Hãy coi chừng việc ác đội lốt việc thiện

Tất cả tội lỗi liên quan đến một loại lừa dối. Nó thường liên quan đến việc cải trang cái xấu thành cái tốt. Có một sự hấp dẫn bề ngoài – ‘Vì môi kẻ dâm phụ tiết ra mật ngọt, miệng lưỡi nó trơn hơn dầu’ (c.3). Nhưng cuối cùng, nó đắng như "ngải cứu" (c.4) và đi theo con đường đó dẫn đến ‘sự chết’ (c.5a) và ‘âm phủ’ (c.5b).

Những câu này chỉ rõ vẻ hấp dẫn và mối nguy hiểm của sự cám dỗ tình dục. Chúng ta đang sống trong một xã hội ngày càng tình dục hóa, với nội dung khiêu dâm trên internet luôn sẵn có, những hình ảnh dâm dục xung quanh chúng ta và một nền văn hóa khuyến khích chúng ta tìm kiếm sự 'thỏa mãn' tình dục.

Chuyện tình dục của chúng ta là một phước lành do Chúa ban cho (xin xem Sáng Thế Ký 2:24), nhưng khi sử dụng sai, nó có thể hủy hoại và gây tổn hại. Những câu này cảnh báo chúng ta về sự hấp dẫn của tội lỗi tình dục, nhưng cảnh báo chúng ta đừng để nó lừa dối.

Tránh xa con đường mà sẽ bạn sẽ hối tiếc. ‘Hãy giữ đường lối con cách xa nó, Đừng đến gần lối vào nhà nó’ (c.8). Nếu phớt lờ lời khuyên này, chúng ta có thể lãng phí cuộc đời và kết thúc cuộc sống với ‘đầy hối tiếc’ (Châm ngôn 5:11). Đừng đùa giỡn với sự cám dỗ; hãy chạy trốn nó.

Tác giả Joyce Meyer viết, 'Sự khôn ngoan là bạn của chúng ta; nó giúp chúng ta không sống trong hối tiếc. Tôi nghĩ điều đáng buồn nhất trên đời là đến tuổi già và nhìn lại cuộc đời mình và không cảm thấy gì ngoài sự hối tiếc về những gì mình đã làm hoặc không làm. Sự khôn ngoan giúp chúng ta đưa ra những lựa chọn bây giờ mà chúng ta sẽ vui lòng về sau.'

Cầu nguyện

Lạy Chúa, xin giúp con khôn ngoan để biết đề phòng và tránh xa bất cứ điều gì có thể dẫn con vào tội lỗi. ‘Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con khỏi điều ác’ (Ma-thi-ơ 6:13).

Tân ước

Mác 2:18 - 3:30

Đức Chúa Trời gọi Lê-vi. – Sự kiêng ăn

18Bấy giờ các môn đồ của Giăng và người Pha-ri-si đều kiêng ăn, có người đến thưa với Đức Chúa Jêsus rằng: “Tại sao các môn đồ của Giăng và môn đồ của phái Pha-ri-si đều kiêng ăn, còn các môn đồ của Thầy lại không kiêng ăn?”

19Đức Chúa Jêsus trả lời: “Có thể nào khách dự tiệc cưới lại kiêng ăn khi chàng rể còn ở với họ? Chừng nào chàng rể còn ở với họ, thì họ không thể kiêng ăn được.20Nhưng đến khi chàng rể được đem đi khỏi họ thì trong ngày ấy họ sẽ kiêng ăn.

21Không ai vá miếng vải mới vào áo cũ; nếu làm vậy thì miếng vá sẽ chằng rách áo cũ, và chỗ rách sẽ càng tệ hơn. 22Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ; nếu làm vậy, rượu sẽ làm nứt bầu, rượu mất mà bầu cũng chẳng còn; nhưng rượu mới phải đựng trong bầu da mới.”

Làm việc trong ngày Sa-bát

23Vào ngày sa-bát Đức Chúa Jêsus đi ngang qua cánh đồng lúa mì. Khi đang đi, các môn đồ Ngài bắt đầu ngắt mấy bông lúa. 24Những người Pha-ri-si nói với Ngài: “Kìa, tại sao môn đồ của Thầy làm điều không được phép làm trong ngày sa-bát?”

25Ngài đáp: “Các ngươi chưa từng đọc về chuyện Đa-vít đã làm khi người cùng những người đi theo lâm vào cảnh túng đói sao? 26Trong thời A-bia-tha làm thầy tế lễ thượng phẩm, Đa-vít đã vào nhà Đức Chúa Trời ăn bánh cung hiến và cho những người đi theo ăn nữa, dù bánh ấy chỉ có những thầy tế lễ mới được phép ăn".

27Rồi Ngài phán: “Ngày sa-bát được tạo nên vì loài người, chứ không phải loài người được tạo nên vì ngày sa-bát. 28Vậy Con Người cũng là Chúa của ngày sa-bát.”

Chúa chữa bệnh trong ngày sa-bát

1Lần khác, Đức Chúa Jêsus vào nhà hội; ở đó có một người đàn ông bị teo một bàn tay. 2Họ theo dõi xem Ngài có chữa cho người đó trong ngày sa-bát không, để tố cáo Ngài. 3Ngài bảo người teo tay: “Hãy ra đứng giữa đây!”

4Rồi Ngài hỏi họ: “Trong ngày sa-bát được phép làm việc lành hay việc dữ, nên cứu người hay giết người?” Nhưng họ đều im lặng.

5Ngài đưa mắt nhìn họ, vừa giận vừa buồn vì lòng họ cứng cỏi, rồi phán với người teo tay: “Hãy giơ tay ra.” Người ấy giơ ra, thì tay được lành. 6Các người Pha-ri-si đi ra, lập tức bàn mưu với những người thuộc phe Hê-rốt chống Ngài để tìm cách giết Ngài.

Đoàn dân trên bờ biển

7Đức Chúa Jêsus cùng các môn đồ lánh ra phía biển; một đoàn người rất đông từ Ga-li-lê kéo đến theo Ngài. Ngoài ra còn nhiều đoàn người đông đúc khác từ Giu-đê, 8thành Giê-ru-sa-lem, miền Y-đu-mê, vùng bên kia sông Giô-đanh, khu vực chung quanh thành Ty-rơ và thành Si-đôn, khi nghe về mọi việc Ngài làm, đã lũ lượt đến với Ngài. 9Vì quá đông người nên Ngài bảo các môn đồ chuẩn bị sẵn cho Ngài một chiếc thuyền, để Ngài khỏi bị họ lấn ép. 10Ngài đã chữa lành nhiều bệnh nhân; vì vậy, ai có bệnh đều cố áp sát Ngài để được chạm vào Ngài. 11Mỗi khi uế linh thấy Ngài, chúng đều sấp mình trước mặt Ngài và kêu lên: “Thầy là Con Đức Chúa Trời!” 12Nhưng Ngài nghiêm cấm chúng tiết lộ Ngài là ai.

Đức Chúa Jêsus chọn mười hai sứ đồ

13Đức Chúa Jêsus đi lên núi, gọi những người Ngài muốn, và họ đến với Ngài. 14Ngài lập mười hai người, gọi là sứ đồ, để ở với Ngài, sai họ đi truyền giảng, 15và ban cho họ thẩm quyền đuổi quỷ. 16Đây là mười hai sứ đồ mà Ngài đã lập: Si-môn, Ngài đặt tên là Phi-e-rơ; 17Gia-cơ con Xê-bê-đê, và Giăng em Gia-cơ, Ngài đặt tên hai người là Bô-a-nẹt, nghĩa là con trai của sấm sét; 18Anh-rê, Phi-líp, Ba-thê-lê-my, Ma-thi-ơ, Thô-ma, Gia-cơ con A-phê, Tha-đê, Si-môn người Ca-na-nê-an, 19và Giu-đa Ích-ca-ri-ốt là kẻ phản Ngài.

Tội phạm đến Đức Thánh Linh

20Đức Chúa Jêsus về nhà; cả một đám đông lại tụ họp tại đó đến nỗi Ngài và các môn đồ không thể dùng bữa được. 21Người nhà của Ngài nghe vậy liền tìm đến để giữ Ngài lại, vì người ta nói rằng “Ngài đã bị mất trí.”

22Các thầy thông giáo từ thành Giê-ru-sa-lem xuống lại nói: “Người nầy bị Bê-ên-xê-bun ám, và nhờ quyền của quỷ vương mà đuổi quỷ.”

23Đức Chúa Jêsus gọi họ đến, dùng ẩn dụ mà nói: “Sa-tan có thể tự đuổi Sa-tan được sao? 24Nếu một nước tự chia rẽ thì nước ấy không thể đứng vững được; 25nếu một nhà tự chia rẽ, thì nhà ấy không thể đứng vững được. 26Cũng vậy, nếu Sa-tan tự chống lại chính mình và chia rẽ nhau thì nó không thể đứng vững được mà đã tận số rồi! 27Không ai có thể vào nhà một người có sức mạnh để cướp tài sản mà không lo trói người ấy trước; phải trói người đó lại, rồi mới cướp nhà người được. 28Thật, Ta bảo các ngươi, mọi tội lỗi sẽ được tha cho con cái loài người, kể cả những lời phạm thượng mà chúng nói ra. 29Nhưng ai xúc phạm đến Đức Thánh Linh thì sẽ chẳng bao giờ được tha, mà phải mắc tội đời đời.”

30Ngài phán như vậy vì họ nói rằng: “Người nầy bị uế linh ám.”

Bình luận

Xác định Chúa Giê-su: thiện hay ác?

Chúa Giê-su là ai? Tất cả chúng ta phải xác định rõ về Chúa Giê-su: Ngài có phải ác không? Ngài có mất trí không? Hay Ngài là Đức Chúa Trời? Đây không phải là một câu hỏi mới mẻ. Những người trong thời Chúa Giê-su cũng phải quyết định giữa ba lựa chọn này.

Chúa Giê-su không chỉ là một giáo sĩ vĩ đại. Ngài nhìn nhận một cách rõ ràng mình hơn như thế. Chúa Giê-su đưa ra những tuyên bố đáng kinh ngạc về chính Ngài. Ngay cả trong phần tương đối ngắn này của sách Phúc Âm Mác, chúng ta cũng thấy một số khẳng định như vậy.

Thực sự chỉ có ba sự lựa chọn: hoặc Ngài là xấu xa hoặc Ngài mất trí hoặc nếu không thì những tuyên bố của Ngài là đúng.

  1. Ngài có phải là quỷ vương?

Các thầy thông giáo từ thành Giê-ru-sa-lem xuống lại nói: “Người nầy bị Bê-ên-xê-bun ám, và nhờ quyền của quỷ vương mà đuổi quỷ.” (3:22). Họ nói, ‘Người nầy bị uế linh ám.’ (c.30b, NIV).

2.Ngài đã bị mất trí?

Mọi người đang nói về Chúa Giê-su, ‘Ngài đã bị mất trí’ (c.21b).

  1. Ngài có phải là Đức Chúa Trời không?

Chúa Giê-su đang ngầm nói rằng Ngài là chàng rể (xem 2:18–19). Ngài tự mô tả mình là 'Chúa của ngày Sa-bát' (c.28), mỗi khi uế linh thấy Ngài, chúng đều sấp mình trước mặt Ngài và kêu lên: ' Thầy là Con Đức Chúa Trời!' (3:11), Chúa Giê-su không phủ nhận nhưng Ngài nghiêm cấm chúng tiết lộ Ngài là ai.(c.12).

C.S. Lewis tóm tắt như sau: “Lúc đó chúng ta đang phải đối mặt với một sự thay thế đáng sợ. Người đàn ông mà chúng ta đang nói đến hoặc (và là) đúng như những gì Ngài đã nói hoặc [mất trí] hoặc điều gì đó tồi tệ hơn. Bây giờ đối với tôi, dường như rõ ràng rằng Ngài không [mất trí] cũng không phải là một kẻ ác; và do đó, cho dù điều đó có vẻ kỳ lạ hay đáng sợ hay khó xảy ra đến đâu, tôi vẫn phải chấp nhận một điều rằng Ngài đã và đang là Đức Chúa Trời. Chúa đã giáng sinh xuống một thế gian bị kẻ thù chiếm đóng này dưới hình dạng con người.’

Sự xác định của chúng ta về việc liệu Chúa Giê-su là quỷ vương, Ngài mất trí hay Ngài là Đức Chúa Trời đều có những hậu quả to lớn.

Sau ba năm ở với Ngài, các môn đồ Ngài đi đến kết luận rằng Ngài thực sự là Con độc nhất của Đức Chúa Trời, Ngôi Lời nhập thể, một người có danh tính là Đức Chúa Trời (2:21-22). Chúa Giê-su kêu gọi họ, cũng như Ngài kêu gọi chúng ta, trước tiên là “ở với Ngài” và sau đó đem sứ điệp của Ngài đến cho thế gian (3:14-15).

Chúa Giê-su nói với những người miêu tả về Ngài như là quỷ vương, ‘Ai nói phạm đến Đức Thánh Linh sẽ không bao giờ được tha mà mắc tội đời đời’ (c.29). Nhiều người đã trở nên lo lắng về câu này, nhưng bất cứ ai lo lắng về điều này sẽ không phạm tội này. Việc mọi người gặp rắc rối (và sẵn sàng ăn năn) là bằng chứng chắc chắn rằng họ không phạm tội. Ai biết ăn năn sẽ được tha tội.

Điều được nói đến ở đây không phải là việc thốt ra một câu nói mà là một thái độ kiên định của tâm trí. Chúa Giê-su không nói rằng họ đã phạm tội – nhưng cảnh báo họ về mối nguy hiểm mà họ đang gặp phải. Đây không phải là những người bình thường. Các thầy thông giáo được công nhận là những giáo sư thần học của dân sự Đức Chúa Trời. Họ đã thường xuyên tiếp xúc với lời Chúa.

Tội lỗi này là một thái độ khi xem điều thiện là điều ác và điều ác là điều thiện. Một người như vậy đã chìm đắm đến mức họ không thể ăn năn và được tha thứ. Ngoài ra, trong danh sách này còn có ‘Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, kẻ đã phản bội Ngài’ (c.19).

Tân Ước đảm bảo với chúng ta rằng bất cứ ai ăn năn và quay về với Chúa Giê-xu đều sẽ được tha tội.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giê-su, hôm nay con thờ phượng Chúa, Ngài là chàng rể, là Chúa của con và là Con của Đức Chúa Trời.

Cựu Ước

Xuất Ai Cập Ký 21:1-22:31

Luật về nô lệ

1 Đây là những luật lệ con phải truyền cho dân chúng:

2 Khi con mua một người nô lệ Hê-bơ-rơ, người đó sẽ phục vụ sáu năm; đến năm thứ bảy người đó sẽ được tự do ra đi mà không phải trả tiền. 3 Nếu người đó vào ở một mình thì sẽ ra đi một mình; nếu có vợ thì sẽ ra đi với vợ. 4 Nếu người chủ cưới vợ cho, và nếu vợ sinh được con trai hay gái thì người đó sẽ ra đi một mình; vợ và các con thuộc về chủ.

5 Nếu người nô lệ nói: “Tôi thương chủ, vợ và con cái tôi; tôi không muốn ra đi tự do,” 6 thì người chủ sẽ dẫn người đó đến trước mặt Đức Chúa Trời, đem lại gần cửa hay trụ cửa, rồi lấy mũi dùi xỏ tai; người đó sẽ phục vụ người chủ ấy trọn đời.

7 Nếu ai bán con gái mình làm nữ tì thì cô gái đó sẽ không được ra đi như các nam nô lệ. 8 Nếu nàng không làm hài lòng chủ là người đã lấy nàng làm hầu thiếp, thì chủ phải để cho nàng được chuộc ra chứ không có quyền bán nàng cho người ngoại bang. 9 Còn nếu chủ muốn dành nàng cho con trai mình thì phải cư xử với nàng như với con gái mình. 10 Nếu người chủ cưới một người vợ khác thì không được cắt giảm phần thức ăn, quần áo và tình nghĩa vợ chồng với người vợ trước. 11 Nếu người chủ không thực hiện ba điều nầy, nàng được tự do ra đi mà không phải trả tiền lại.

Luật về tội bạo hành

12 Kẻ nào đánh chết một người sẽ bị tử hình. 13 Tuy nhiên, nếu người đó không cố sát nhưng Đức Chúa Trời đã trao kẻ bị giết vào tay người đó thì Ta sẽ định cho con một chỗ để người đó ẩn náu. 14 Nếu người nào chủ ý tấn công và cố ý giết người lân cận mình thì hãy lôi nó ra khỏi bàn thờ Ta mà giết đi.

15 Kẻ nào đánh cha hay mẹ mình sẽ bị tử hình.

16 Kẻ nào bắt cóc người, hoặc đã bán đi hay còn đang giữ trong tay mình, sẽ bị tử hình.

17 Kẻ nào nguyền rủa cha hay mẹ mình sẽ bị xử tử.

Luật về tranh cãi và đả thương

18 Khi hai người cãi nhau, người nầy đánh người kia bằng một viên đá hay bằng nắm đấm, người kia không đến nỗi chết, nhưng phải nằm liệt giường; 19 nếu sau đó người ấy đứng dậy chống gậy đi ra ngoài được thì kẻ đánh người đó sẽ được tha, chỉ phải đền bù thiệt hại trong thời gian nghỉ việc, và chăm lo cho đến khi hoàn toàn bình phục.

20 Khi người chủ nô lấy gậy đánh chết ngay tại chỗ nam hay nữ nô lệ của mình thì người chủ ấy phải bị phạt. 21 Nhưng nếu người nô lệ ấy còn sống một hai ngày thì người chủ khỏi tội, vì nô lệ đó vốn là tài sản của chủ.

22 Nếu người ta đánh nhau và gây thương tích cho một phụ nữ có thai, làm hư thai nhưng không gây thương tổn gì khác, thì kẻ gây thương tích phải bồi thường theo yêu cầu của người chồng và trả tiền trước mặt các thẩm phán. 23 Nhưng nếu có gây thương tổn thì con phải lấy mạng đền mạng, 24 lấy mắt đền mắt, lấy răng đền răng, lấy tay đền tay, lấy chân đền chân. 25 lấy phỏng đền phỏng, lấy vết bầm đền vết bầm, lấy thương tích đền thương tích.

26 Nếu chủ nô đánh vào mắt của nam hay nữ nô lệ mình và làm hỏng mắt đó thì người chủ phải để cho người nô lệ được ra đi tự do, để đền lại con mắt. 27 Nếu người chủ đánh gãy răng của một nam hay nữ nô lệ mình thì người chủ phải để cho người nô lệ được ra đi tự do, để đền lại chiếc răng.

Luật về bồi thường

28 Khi có một con bò húc chết một người đàn ông hay đàn bà thì con bò ấy phải bị ném đá chết; người ta không được ăn thịt nó; người chủ bò sẽ vô can. 29 Nhưng nếu trước đó con bò vốn có tật hay húc người và chủ bò đã từng được cảnh cáo nhưng vẫn không canh giữ, để nó húc chết một người đàn ông hay đàn bà thì bò phải bị ném đá và chủ bò sẽ bị tử hình. 30 Tuy nhiên, nếu người ta ra giá cho chủ bò chuộc mạng thì chủ phải trả theo giá đã định để chuộc mạng sống mình. 31 Nếu bò húc phải một người con trai hay con gái thì chủ bò cũng sẽ bị xử theo luật nầy. 32 Còn nếu bò húc nhằm một nam hay nữ nô lệ thì chủ bò phải trả cho chủ nô lệ đó ba trăm gam bạc; còn con bò phải bị ném đá chết.

33 Nếu người nào mở nắp miệng hầm hay đào hầm mà không đậy lại, và nếu có một con bò hay lừa té xuống đó 34 thì chủ hầm sẽ phải bồi thường cho chủ của con vật, nhưng con vật chết đó sẽ thuộc về chủ hầm.

35 Nếu bò của người nầy húc chết bò của người kia thì hai người hãy bán con bò còn sống rồi chia đôi tiền và thịt của con bò chết. 36 Tuy nhiên, nếu người chủ biết rõ con bò mình từ lâu đã có tật hay húc nhau mà không chịu canh giữ thì chủ ấy phải lấy bò thường bò, nhưng con bò chết sẽ thuộc về mình.

Luật về tội trộm cắp

1 Nếu ai bắt trộm một con bò hay một con chiên rồi giết hoặc bán đi, thì phải đền gấp năm lần cho mỗi con bò và gấp bốn lần cho mỗi con chiên.

2 Nếu kẻ trộm bị bắt quả tang đang lúc cạy cửa và bị đánh chết thì kẻ đánh chết không mắc tội làm đổ máu; 3 nhưng nếu việc xảy ra sau khi mặt trời mọc thì kẻ đánh chết người sẽ mắc tội làm đổ máu.

Kẻ trộm phải bồi thường; nếu kẻ trộm không có gì để bồi thường thì sẽ bị bán vì tội trộm cắp. 4 Nếu tìm thấy trong tay kẻ trộm vật mà nó đã lấy, hoặc bò, lừa hay chiên còn sống thì kẻ trộm đó phải bồi thường gấp đôi.

Luật về sự hư hại

5 Nếu ai gây hư hại cho ruộng hay vườn nho, hoặc thả súc vật mình vào cắn phá ruộng người khác.Nếu ai đốt ruộng hay vườn nho và không kiểm soát được lửa, để cháy ruộng người khác. thì người ấy phải lấy hoa lợi tốt nhất của ruộng hay là vườn nho mình mà bồi thường.

6 Nếu lửa bùng phát và bắt sang bụi gai rồi thiêu hủy các bó lúa, lúa chưa gặt, hay là đồng ruộng thì kẻ gây hỏa hoạn đó phải bồi thường toàn bộ mọi vật đã bị cháy.

Luật về tội gian trá

7 Khi ai giao tiền bạc hay đồ vật cho người lân cận mình giữ, chẳng may bị mất trộm trong nhà người đó; nếu tên trộm bị bắt thì nó phải đền gấp đôi. 8 Còn nếu tên trộm không bị bắt thì chủ nhà sẽ bị đem đến trước mặt Đức Chúa Trời để xác định là mình có lấy tài vật của người lân cận mình hay không. 9 Trong mọi việc tranh tụng liên quan đến tài sản, hoặc bò, lừa, chiên, áo xống hay bất cứ vật gì bị mất, mà có người nói: “vật nầy là của tôi” thì cả hai bên phải đến trước mặt Đức Chúa Trời. Bên nào bị kết án sẽ phải bồi thường gấp đôi cho người lân cận mình.

10 Nếu người nào giao lừa, bò, chiên, hoặc súc vật nào khác cho người lân cận mình giữ, và nó bị chết, bị thương hay bị bắt mất mà không ai thấy, 11 thì hai bên phải nhân danh Đức Giê-hô-va mà thề để xác định rằng người giữ súc vật không hề lấy tài vật của người lân cận mình. Người chủ phải chấp nhận lời thề, và người kia không phải bồi thường gì hết. 12 Nhưng nếu con vật bị người đó bắt trộm thì phải bồi thường cho chủ nó. 13 Nếu con vật bị thú rừng xé ra từng mảnh, người giữ con vật đưa ra được bằng chứng thì sẽ không phải bồi thường con vật bị xé đó.

14 Nếu ai mượn người lân cận mình một con vật, rồi nó bị thương hay bị chết trong lúc chủ không có mặt, thì người đó phải bồi thường. 15 Nhưng, nếu chủ có mặt tại đó thì không phải bồi thường. Nếu con vật đã cho thuê thì giá thuê thế cho tiền bồi thường.

Luật về phong tục và tôn giáo

16 Khi một người dụ dỗ một trinh nữ chưa đính hôn và nằm với nàng, thì kẻ đó phải nộp sính lễ và cưới nàng làm vợ. 17 Nếu cha nàng cương quyết không gả thì kẻ đó phải nộp một số tiền tương đương với sính lễ dành cho các trinh nữ.

18 Không được tha mạng cho các mụ phù thủy.

19 Kẻ nào nằm với một con vật sẽ bị tử hình.

20 Kẻ nào dâng sinh tế cho các thần khác ngoài Đức Giê-hô-va sẽ bị tận diệt.

21 Con chớ nên bạc đãi hay áp bức người tha hương vì các con đã từng là kẻ tha hương trên đất Ai Cập.

22 Các con chớ ức hiếp bất cứ một bà góa hay một trẻ mồ côi nào. 23 Nếu cứ ức hiếp họ, và họ kêu van Ta, Ta chắc chắn sẽ nghe tiếng kêu của họ; 24 cơn giận của Ta sẽ bừng lên, Ta sẽ dùng gươm giết các con; vợ các con sẽ trở nên góa bụa và con các con sẽ mồ côi.

25 Nếu con cho bất cứ ai trong dân Ta, là những người nghèo khó ở giữa con, mượn tiền thì đừng đối xử với họ như chủ nợ, và cũng đừng bắt họ chịu lời. 26 Nếu con giữ áo choàng của người lân cận mình làm vật thế chấp thì phải trả cho họ trước khi mặt trời lặn; 27 vì đó là tấm đắp duy nhất của họ, là chiếc áo khoác che thân; lấy đi người ấy lấy gì mà ngủ? Nếu nó kêu van với Ta, thì Ta sẽ lắng nghe, vì Ta là Đấng nhân từ.

28 Con không được phạm thượng với Đức Chúa Trời,cũng đừng rủa sả người lãnh đạo dân tộc mình.

29 Con đừng chậm trễ trong việc dâng hiến những sản phẩm đầu mùa và rượu của con. Con cũng phải dâng cho Ta các con trai đầu lòng của con. 30 Con cũng phải làm như thế với chiên và bò của con. Hãy để con đầu lòng ở với mẹ nó trong bảy ngày, đến ngày thứ tám con hãy dâng nó cho Ta.

31 Các con là người thánh của Ta, vì vậy không được ăn thịt của con vật bị thú rừng cắn xé ở ngoài đồng; hãy ném nó cho chó ăn.

Bình luận

Thúc đẩy điều thiện và ngăn chặn điều ác

Dân sự Chúa đặt ra luật lệ cho xã hội của họ. Một số luật có thể rất xa lạ hoặc khắc nghiệt đối với chúng ta. Tuy nhiên, nếu chúng ta so sánh chúng với luật của những người cổ đại khác thì luật của con dân Chúa rất nhân đạo và một số nguyên tắc vẫn còn phù hợp cho đến ngày nay.

Những luật này được soạn thảo để hạn chế cái ác. Ví dụ, có quyền tự vệ, nhưng không được sử dụng vũ lực quá mức để tự vệ (22:2-3). Ngoài ra còn có lệnh cấm bạo lực thái quá và quy định hình phạt tương đương – ‘mạng đền mạng, mắt đền mắt…’, v.v. (21:23–25).

Rõ ràng luật pháp được soạn thảo cho các thẩm phán chứ không phải cho các cá nhân (xin xem Phục Truyền Luật Lệ Ký 19:18–21). Đây là một hướng dẫn dành cho các thẩm phán và tuyên án. Nó không bao giờ xác định rằng các cá nhân nên trả thù chính xác theo cách như vậy. Trên thực tế, nó gần như chắc chắn không bao giờ được hiểu theo nghĩa đen, ngoại trừ trường hợp phạm tội tử hình. Các điều luật chỉ là đưa ra mức án tối đa có thể. Hình phạt thường được thay thế bằng tiền phạt tài chính và thiệt hại.

Đối với một độc giả cổ đại, việc nhấn mạnh đến quyền của nô lệ sẽ là một cuộc cách mạng. Các người chủ phải thả nô lệ của họ sau tối đa sáu năm (Xuất Ê-díp-tô Ký 21:2) và có những biện pháp kiểm soát chặt chẽ để hạn chế việc ngược đãi nô lệ (c.20, 26–27). Dường như có một mối quan tâm đặc biệt đối với quyền của nữ nô lệ, những người đặc biệt dễ bị tổn thương trong thế giới cổ đại. Họ không được đối xử giống như nam nô lệ (c.7) nhưng phải kết hôn hoặc được phép chuộc lại (c.8–11).

Đồng thời, luật pháp của Y-sơ-ra-ên Cổ đại tìm cách thúc đẩy điều tốt. Đức Chúa Trời phán, ‘Các con là người thánh của Ta’ (22:31a). Vì vậy, đã có luật để bảo vệ ‘người tha hương’ (c.21), cũng như các góa phụtrẻ mồ côi (c.22). Trong phân đoạn ngày mai, chúng ta sẽ thấy rằng cũng có luật để đảm bảo ‘công lý’ cho người nghèo (23:6). Mỗi người được dạy không tìm cách trả thù và không mang mối hận thù. Thay vào đó, họ được dạy: “Hãy yêu người lân cận như chính mình” (Lê-vi Ký 19:18).

Luật pháp đã giúp chúng ta xây dựng một cộng đồng dựa trên cơ sở là sự phụ thuộc lẫn nhau và có trách nhiệm với nhau. Mỗi quy định, dù lạ lẫm đến mấy, đều giúp con người học cách phụ thuộc nhau và quan tâm đến nhau. Đây là bài học mà tất cả chúng ta cần phải học, đặc biệt trong môi trường sống độc lập và cô lập của thế kỷ 21 này. Chúng ta không tuân thủ các quy tắc và quy định chỉ vì chúng ta phải làm thế, nhưng vì những điều đó giúp chúng ta đối xử với mọi người như những người được dựng nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, xin giúp con trong cuộc sống này có thể tránh điều ác và làm điều lành. Xin giúp con đối xử với mỗi người mà con tiếp xúc hôm nay như một người được tạo dựng theo hình ảnh của Ngài – bằng tình yêu thương, phẩm chất tốt và sự tôn trọng.

Pippa chia sẻ

Sau khi đọc Xuất Ê-díp-tô Ký 21 và 22, tất cả đều nói về luật bảo vệ xã hội, tôi rất vui vì trong Tân Ước, Chúa Giê-su diễn giải lại luật Cựu Ước một cách triệt để và chúng ta thấy Ngài chữa bệnh cho một người vào ngày Sa-bát.

reader

App

Tải xuống ứng dụng Kinh Thánh Trong Một Năm dành cho thiết bị iOS hoặc Android và đọc theo mỗi ngày.

reader

Email

Đăng ký ngay bây giờ để nhận Kinh thánh trong một năm trong hộp thư đến của bạn mỗi sáng. Bạn sẽ nhận được một email mỗi ngày.

reader

Website

Bắt đầu đọc sự tận tâm của ngày hôm nay ngay tại đây trên trang web BiOY.

Read now
reader

Book

Kinh thánh trong một năm bình luận có sẵn như là một cuốn sách.

Tham khảo

The One Year® là nhãn hiệu đã đăng ký của Tyndale House Publishers. Được sử dụng bởi sự cho phép.

Đặc biệt có thể tìm thấy những gợi ý thực tế hơn về cách tránh cám dỗ tình dục trong Lối sống của Chúa Giê-su, chương 5: ‘Hiểu thế nào là tình dục trong thế kỷ 21’.

C. S. Lewis, Cơ đốc giáo đơn thuần, (HarperCollins, 2001), tr.50

Joyce Meyer, The Everyday Life Bible, (Faithwords, 2013), tr.965

Trừ khi có quy định khác, các trích dẫn Kinh thánh được lấy từ Kinh thánh, Phiên bản quốc tế mới được Anh hóa, Bản quyền © 1979, 1984, 2011 Biblica, trước đây là Hiệp hội Kinh thánh Quốc tế. Được sử dụng dưới sự cho phép của Hodder & Stoughton Publishers, một công ty của Hachette UK. Đã đăng ký Bản quyền. 'NIV' là nhãn hiệu đã đăng ký của Biblica. Nhãn hiệu Vương quốc Anh số 1448790.

Thánh Kinh được đánh dấu (MSG) lấy từ The Message. Bản quyền © 1993, 1994, 1995, 1996, 2000, 2001, 2002. Được sử dụng dưới sự cho phép của NavPress Publishing Group.

This website stores data such as cookies to enable necessary site functionality and analytics. Find out more