Ngày 69

Bị Đóng Đinh

Khôn ngoan Thi thiên 31:19-24
Tân ước Mác 15:1-31
Cựu Ước Lê-vi Ký 21:1-22:33

Giới thiệu

Trong thời kỳ nô lệ tại Hoa Kỳ, những người nô lệ ở miền Nam phải sống trong hoàn cảnh vô cùng tàn khốc. Họ đã sáng tác nên những bài hát sâu lắng với giai điệu da diết, chan chứa cảm xúc. Những bài hát "tâm linh" này là những bài ca của hy vọng và mong đợi. Đó là tiếng kêu than từ tận sâu linh hồn của những người nô lệ đang khao khát tự do.

Họ đã tiếp nhận Chúa Giê-su làm Cứu Chúa và Chúa của mình, và ngay giữa những đau khổ gần như không thể chịu đựng nổi, họ đã kinh nghiệm ân điển, sự bình an và niềm hy vọng về tương lai từ Ngài. Từ mối quan hệ ấy, họ có thể cất tiếng hát:

"Khi Ngài chịu đóng đinh, bạn có ở đó chăng?"

Trong phân đoạn Tân Ước hôm nay, chúng ta thấy bối cảnh cho tuyên bố phi thường của Tân Ước rằng Đấng mà họ đã đóng đinh chính là Chúa của tôi. Trong Cựu Ước, Đức Chúa Trời được gọi là "Chúa".

Từ Hê-bơ-rơ nguyên bản cho “Chúa” là YHWH, không có nguyên âm và không được phát âm. Nó được xem là quá thánh khiết để có thể xướng lên. Vì lý do đó, khi các nguyên âm được thêm vào các bản văn Hê-bơ-rơ gốc, chúng không được thêm vào Danh (YHWH). Trong thời hiện đại, có nhiều tranh luận về việc nên dùng nguyên âm nào—trước đây người ta cho rằng nên đọc là Jehovah, nhưng hầu hết các học giả ngày nay tin rằng Yahweh chính xác hơn.

Trong bản dịch Hy Lạp của Cựu Ước, tức Bản Bảy Mươi (Septuagint), danh thánh này (YHWH) được dịch là Kyrios (Chúa). Điều thực sự đáng kinh ngạc là các tác giả Tân Ước (những người vốn là người Do Thái theo chủ nghĩa độc thần) đã đưa ra khẳng định nền tảng của đức tin Cơ Đốc rằng "Chúa Giê-su là Chúa" (Kyrios) (Rô-ma 10:9; 2 Cô-rinh-tô 4:5; Công vụ 2:36) và rằng "Chúa của chúng ta đã chịu đóng đinh vì chúng ta".

Khôn ngoan

Thi thiên 31:19-24

19 Sự nhân từ của Chúa thật lớn thay! Chúa dành sự nhân từ cho người kính sợ Ngài, Và ban cho những ai nương náu mình nơi Ngài, Trước mặt mọi người.

20 Chúa giấu họ nơi kín đáo trước mặt Chúa Cách xa mưu kế của loài người; Chúa che chở họ trong lều trại Cách xa miệng lưỡi tranh cạnh.

21 Đáng ca ngợi Đức Giê-hô-va Vì Ngài đã tỏ lòng nhân từ lạ lùng với con Khi con bị bao vây trong thành.

22 Trong cơn bối rối con nói rằng: “Con bị diệt mất trước mắt Chúa.” Nhưng khi con kêu cầu với Chúa, Ngài nghe tiếng nài xin của con.

23 Hỡi các thánh của Đức Giê-hô-va, hãy yêu mến Ngài! Đức Giê-hô-va gìn giữ người trung tín Nhưng báo trả nặng nề kẻ ăn ở kiêu ngạo.

24 Hỡi những người trông đợi Đức Giê-hô-va, Hãy vững lòng bền chí!

Bình luận

Đa-vít kêu gọi: "Hãy yêu mến Đức Giê-hô-va, hỡi hết thảy những người trung tín của Ngài!" (c.23a). Yêu mến Chúa là điều răn quan trọng nhất. Đây là một mối quan hệ yêu thương hai chiều. Chúng ta yêu Ngài vì Ngài đã yêu chúng ta trước (1 Giăng 4:19). Tình yêu của chúng ta là sự đáp lại tình yêu của Ngài.

Đa-vít viết: "Đáng ngợi khen Đức Giê-hô-va, vì Ngài đã tỏ lòng yêu thương diệu kỳ của Ngài cho tôi" (Thi Thiên 31:21a). Hãy suy ngẫm về tình yêu lớn lao mà Đức Chúa Trời dành cho bạn. "Ôi, biết bao phước lành Ngài đã tích trữ cho những ai kính sợ Ngài!" (c.19, MSG).

Ngài che chở bạn trong "nơi ẩn náu của sự hiện diện Ngài" (c.20a). Ngài giữ bạn an toàn trong nơi ở của Ngài (c.20b). Ngài bảo vệ bạn khỏi "những lời vu khống" (c.20b). Ngài nghe tiếng kêu xin thương xót của bạn khi bạn cầu khẩn "sự cứu giúp" (c.22b). "Đức Chúa Trời gìn giữ tất cả những ai nương náu nơi Ngài" (c.23, MSG). Vì vậy, bạn hãy "mạnh mẽ và vững lòng" (c.24a), ngay cả khi đối diện khó khăn. "Hãy can đảm. Hãy mạnh mẽ. Đừng bỏ cuộc" (c.24, MSG).

Cầu nguyện

Lạy Chúa, con ngợi khen Chúa vì những điều kỳ diệu của tình yêu Chúa. Cảm ơn vì Chúa đã nghe tiếng kêu cầu của con khi con kêu cầu Ngài giúp đỡ. Chúa ơi, xin giúp con...

Tân ước

Mác 15:1-31

15 1 Vừa lúc ban mai, các thầy tế lễ cả bàn luận với các trưởng lão, các thầy thông giáo cùng cả tòa công luận; khi đã trói Đức Chúa Jêsus rồi, thì giải nộp cho Phi-lát.

2 Phi-lát hỏi Ngài rằng: Ấy chính ngươi là Vua dân Giu-đa phải không? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Thật như lời.

3 Các thầy tế lễ cả cáo Ngài nhiều điều.

4 Phi-lát lại tra gạn Ngài, mà rằng: Ngươi chẳng đối đáp chi hết sao? Hãy coi họ cáo tội ngươi biết bao nhiêu!

5 Nhưng Đức Chúa Jêsus chẳng trả lời chi nữa, nên nỗi Phi-lát lấy làm lạ.

6 Vả, hễ đến ngày lễ Vượt Qua, quan vốn quen thói tha cho dân một tên tù, tùy theo dân xin.

7 Bấy giờ có một đứa tên là Ba-ra-ba bị tù với kẻ làm loạn, vì trong khi nổi loạn, chúng nó phạm tội giết người.

8 Đoàn dân đã lên, bèn xin Phi-lát làm cho mình theo như lệ thường.

9 Phi-lát trả lời rằng: Các ngươi muốn ta tha Vua dân Giu-đa cho chăng?

10 Vì người biết rõ các thầy tế lễ cả đã nộp Ngài bởi lòng ghen ghét.

11 Nhưng các thầy tế lễ cả xui dân xin người tha tên Ba-ra-ba cho mình thì hơn.

12 Phi-lát lại cất tiếng hỏi rằng: Vậy thì các ngươi muốn ta dùng cách nào xử người mà các ngươi gọi là Vua dân Giu-đa?

13 Chúng lại kêu lên rằng: Hãy đóng đinh nó vào thập tự giá!

14 Phi-lát nói cùng chúng rằng: Song người nầy đã làm điều ác gì? Chúng lại kêu lớn tiếng hơn rằng: Hãy đóng đinh nó vào thập tự giá!

15 Phi-lát muốn cho đẹp lòng dân, bèn tha tên Ba-ra-ba; và sai đánh đòn Đức Chúa Jêsus, rồi giao Ngài cho chúng đem đóng đinh trên cây thập tự.

16 Lính điệu Đức Chúa Jêsus vào sân trong, tức là trong chỗ trường án; và nhóm cả cơ binh lại đó.

17 Họ choàng cho Ngài một cái áo điều, và đội trên đầu Ngài một cái mão bằng gai họ đã đương,

18 rồi chào Ngài rằng: Kính lạy Vua dân Giu-đa! 19 Lại lấy cây sậy đánh đầu Ngài, nhổ trên Ngài, và quì xuống trước mặt Ngài mà lạy. 20 Khi họ đã nhạo cười Ngài như vậy rồi, thì cổi áo điều ra, mặc áo của Ngài lại cho Ngài, và đem ra để đóng đinh trên cây thập tự. 21 Có một tên Si-môn kia, người thành Sy-ren, là cha A-léc-xan-đơ và Ru-phu, ở ngoài ruộng về, đi ngang qua đó; họ bắt phải vác cây thập tự.

22 Họ đem Đức Chúa Jêsus đến nơi kia, gọi là Gô-gô-tha, nghĩa là chỗ Sọ.

23 Họ cho Ngài uống rượu hòa với một dược; song Ngài không uống.

24 Khi đóng đinh Ngài trên cây thập tự rồi, họ chia áo xống Ngài cho nhau, bắt thăm để biết ai được gì.

25 Lúc đóng đinh Ngài, là giờ thứ ba.

26 Án Ngài có ghi vào cái bảng rằng: Vua dân Giu-đa.

27 Cũng có hai đứa ăn cướp bị đóng đinh với Ngài, một đứa tại cây thập tự bên hữu Ngài, một đứa tại cây thập tự bên tả.

28 [Như vậy được ứng nghiệm lời Kinh Thánh rằng: Ngài đã bị kể vào hàng kẻ dữ.]

29 Những kẻ đi ngang qua đó chế báng Ngài, lắc đầu mà nói rằng: Ê! ngươi là kẻ phá đền thờ, và cất lại trong ba ngày,

30 hãy cứu lấy mình, xuống khỏi cây thập tự đi!

31 Các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo cũng nói với nhau như vậy, mà nhạo cười Ngài rằng: Hắn đã cứu kẻ khác; mà cứu mình không được!

32 Hỡi Đấng Christ, Vua Y-sơ-ra-ên, bây giờ hãy xuống khỏi thập tự giá đi để chúng tôi thấy và tin!” Hai tên cướp cùng bị đóng đinh với Ngài cũng mắng nhiếc Ngài nữa.

Bình luận

Chúa Giê-su là Chúa

“Khi Ngài chịu đóng đinh, bạn có ở đó chăng?” Tôi cảm thấy đau lòng khi đọc tường thuật về sự sỉ nhục, tra tấn và đóng đinh Chúa Giê-su. Họ đã đóng đinh bạn hữu và Chúa của tôi. Chúa Giê-su chính là:

1. Vua của tôi Chúa Giê-su chấp nhận danh hiệu “Vua dân Giu-đa” (Mác 15:2). Những người lính đã dùng danh xưng ấy để chế giễu Ngài (c.18), và đó cũng là dòng chữ được ghi trên thập tự giá như một cáo trạng chống lại Ngài (c.26). Tuy nhiên, Chúa Giê-su chính là sự ứng nghiệm của niềm mong mỏi lớn lao của dân Y-sơ-ra-ên và những lời hứa về một Vua thuộc dòng Đa-vít (xem Ê-sai 9 và 11). Nhưng Ngài là một Vua khác biệt.

Ngài bị nộp cho Phi-lát bởi lòng ganh tị của các lãnh đạo tôn giáo (“Họ ghen tị với Ngài”, Mác 15:10, MSG). Hãy cẩn thận với lòng ganh tị. Đôi khi nó được gọi là “tội lỗi của tôn giáo”.

Chúa Giê-su chịu sỉ nhục và bị vu khống. Nếu bạn bị nói xấu hay vu oan, hãy tạ ơn Chúa vì Ngài cho bạn được dự phần, dù rất nhỏ, trong sự thương khó của Chúa Giê-su. Hãy cầu xin Chúa giúp bạn đáp lại như Ngài—bằng tình yêu thương và sự tha thứ.

2. Đấng Mê-si-a của tôi Thật mỉa mai khi các lãnh đạo tôn giáo chế giễu và gọi Ngài là “Đấng Christ” (c.31–32), bởi vì đó chính xác là danh hiệu của Ngài. Từ “Christ” trong tiếng Anh có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp Christos, dịch từ tiếng Hê-bơ-rơ Mashiah hay Mê-si-a. Cả hai từ này đều có nghĩa là “Đấng được xức dầu”.

Chúng ta đã thấy Chúa Giê-su là Thầy Tế Lễ được xức dầu của Đức Chúa Trời. Ở đây, chúng ta thấy Ngài là Vua được xức dầu.

3. Cứu Chúa của tôi Một lần nữa, chúng ta thấy sự mỉa mai trong những lời chế giễu của những kẻ qua đường: “Hãy xuống khỏi thập tự giá và tự cứu mình đi!” (c.30), và của các lãnh đạo tôn giáo: “Người đã cứu người khác mà không thể tự cứu mình!” (c.31). Đó chính là sự thật—để trở thành Cứu Chúa của thế gian, Ngài không thể tự cứu chính mình. Ngài phải chịu khổ hình trên thập tự giá để cứu bạn và tôi.

Câu chuyện về Ba-ra-ba là một hình ảnh về điều Chúa Giê-su đã làm với tư cách là Cứu Chúa của thế gian. Ba-ra-ba, giống như tôi, là người có tội và đáng bị trừng phạt. Hắn “bị giam chung với những kẻ nổi loạn đã phạm tội giết người” (c.7). Ngược lại, Chúa Giê-su hoàn toàn vô tội. Phi-lát đã hỏi: “Người này đã làm điều ác gì?” (c.14). Thế nhưng, Ba-ra-ba lại được thả tự do, còn Chúa Giê-su thì bị giao nộp để chịu đóng đinh (c.15).

Đấng vô tội đã chịu hình phạt thay cho tôi, kẻ có tội, để tôi được tự do. Có thể chúng ta không phải là kẻ giết người như Ba-ra-ba, nhưng tất cả chúng ta đều cần được cứu bởi Cứu Chúa của thế gian.

4. Chúa của tôi Trong phân đoạn hôm qua, chúng ta thấy khi thầy tế lễ thượng phẩm hỏi Chúa Giê-su: “Ngươi có phải là Đấng Christ, Con của Đấng Đáng Chúc Tụng không?” Ngài đáp: “Chính Ta.” ("I AM") (Mác 14:61–62). Phản ứng của thầy tế lễ thượng phẩm là buộc tội Ngài phạm thượng—tức là tự xưng mình là Đức Chúa Trời.

Tại sao vậy? Khi Đức Chúa Trời bày tỏ danh Ngài là YHWH cho Môi-se (Xuất Ê-díp-tô Ký 3:14–15), Ngài cũng giải thích ý nghĩa của danh đó. Nó xuất phát từ cụm từ Hê-bơ-rơ “Ta là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu”, hoặc đơn giản là “Ta là” ("I AM"). Phản ứng của thầy tế lễ thượng phẩm cho thấy rằng Chúa Giê-su đang tuyên bố chính mình là YHWH (Đức Chúa Trời).

Chân lý kỳ diệu này chính là bối cảnh cho lời tuyên xưng tuyệt vời của sứ đồ Phao-lô trong Phi-líp 2:5–11 (là nền tảng của bài cầu nguyện dưới đây).

Cầu nguyện

Lạy Chúa, xin giúp con có cùng tâm tình như Chúa Giê-su, Đấng đã hạ mình và vâng phục cho đến chết. Con cảm tạ Ngài vì Ngài đã tôn cao Chúa Giê-su lên ngôi cao nhất và ban cho Ngài danh trên hết mọi danh, để khi nghe danh Chúa Giê-su, mọi đầu gối trên trời, dưới đất và bên dưới đất đều quỳ xuống, và mọi lưỡi đều tuyên xưng rằng: Chúa Giê-su Christ là Chúa.

Cựu Ước

Lê-vi Ký 21:1-22:33

211 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se rằng: Hãy nói cùng những thầy tế lễ, là các con trai A-rôn, mà rằng: Thầy tế lễ chớ vì một người chết trong dân sự mà làm cho mình ra ô uế;

2 trừ ra vì bà con thân thích mình, vì mẹ, cha, con trai, con gái, anh em mình, 3 và vì chị em ruột mình còn đồng trinh, chưa chồng, thì người được vì chị em đó làm cho mình ra ô uế.

4 Người là đầu trưởng trong dân sự mình, chớ làm mình ra tục mà bị ô uế. 5 Các thầy tế lễ chớ nên làm sói trên đầu; chớ cạo mép râu mình, đừng cắt thịt mình. 6 Họ sẽ biệt riêng ra thánh cho Đức Chúa Trời mình, và chớ làm ô danh Ngài, vì họ dâng cho Đức Giê-hô-va các của lễ dùng lửa thiêu; tức là thực vật của Đức Chúa Trời mình: họ phải nên thánh.

7 Thầy tế lễ chớ nên cưới một người kỵ nữ hay là kẻ dâm ô; cũng chẳng nên cưới người bị chồng để, vì thầy tế lễ đã biệt riêng ra thánh cho Đức Chúa Trời mình. 8 Vậy, ngươi hãy kể thầy tế lễ như thánh, vì người dâng thực vật của Đức Chúa Trời người; người sẽ là thánh cho ngươi, vì ta, Đức Giê-hô-va, là thánh, Đấng làm cho các ngươi nên thánh vậy.

9 Nếu con gái thầy tế lễ đi dâm ô, tự làm nên kỵ nữ, ấy là làm ô danh cho cha nó, nó phải bị thiêu lửa. 10 Thầy tế lễ được quyền trọng hơn các anh em mình, - đã được rưới dầu xức trên đầu mình, được biệt riêng ra thánh, để mặc mình bằng bộ áo thánh, - chẳng nên để đầu trần và xé áo mình. 11 Ngươi chớ đi đến cùng một kẻ chết, chớ vì cha hay mẹ mà làm mình ra ô uế. 12 Người chẳng nên đi ra khỏi nơi thánh, đừng làm cho nơi thánh của Đức Chúa Trời mình ra ô uế, vì cái mão dầu xức của Đức Chúa Trời vẫn ở trên đầu người: Ta là Đức Giê-hô-va.

13 Người phải cưới gái đồng trinh làm vợ. 14 Người chẳng nên cưới đàn bà góa, bị để, dâm ô hay là kỵ nữ, nhưng phải cưới một người đồng trinh trong vòng dân sự mình. 15 Người chẳng nên làm ô danh dòng họ mình giữa dân sự người, vì ta là Đức Giê-hô-va làm cho người nên thánh. 16 Đức Giê-hô-va còn phán cùng Môi-se rằng:

17 Hãy nói cùng A-rôn mà rằng: Phàm ai trong dòng họ ngươi, trải các đời, có một tật bịnh trong thân thể, chớ đến gần mà dâng thực vật cho Đức Chúa Trời mình. 18 Phàm ai có một tật không được đến gần, như đây: người mù, què, sệp mũi hay là tứ chi không đều; 19 người gãy chân hay gãy tay, 20 người có bướu hay là lỏng khỏng, có vảy cá mắt hay là có ghẻ chốc, có lát hay là có hòn nang dập. 21 Phàm con cháu thầy tế lễ A-rôn, có tật trong mình, không được đến gần dâng của lễ dùng lửa dâng lên cho Đức Giê-hô-va. Nếu có một tật trong mình, không được đến gần dâng thực vật cho Đức Chúa Trời mình. 22 Người được ăn thực vật của Đức Chúa Trời mình, là các vật chí thánh và các vật biệt riêng ra thánh; 23 nhưng không được đi đến bức màn, và cũng không được đi đến gần bàn thờ, vì có tật nơi mình. Ngươi chớ làm các nơi thánh ta ra ô uế, vì ta, Đức Giê-hô-va, làm các nơi đó nên thánh. 24 Môi-se nói như vậy cho A-rôn và các con trai người, cùng cho cả dân Y-sơ-ra-ên.

Việc sử dụng các lễ vật thánh

22 1 Đức Giê-hô-va lại phán với Môi-se: 2 “Hãy bảo A-rôn và các con trai người phải thận trọng với những lễ vật thánh mà dân Y-sơ-ra-ên cung hiến cho Ta để không xúc phạm đến danh thánh Ta. Ta là Đức Giê-hô-va. 3 Hãy bảo họ rằng: ‘Qua mọi thế hệ, bất cứ người nào trong dòng dõi A-rôn đang trong tình trạng ô uế mà đến gần các lễ vật thánh do dân Y-sơ-ra-ên cung hiến lên Đức Giê-hô-va, thì người đó sẽ bị khai trừ khỏi sự hiện diện của Ta. Ta là Đức Giê-hô-va. 4 Không một người nào trong dòng dõi A-rôn mắc bệnh phong hủi hay bệnh lậu được phép ăn những lễ vật thánh cho đến khi người ấy được thanh sạch. Người nào chạm vào bất cứ thứ gì đã bị ô uế bởi xác chết, người mắc chứng di tinh, 5 kẻ bị ô uế vì đụng đến loài sâu bọ, hay người bị ô uế vì chạm vào một kẻ nào đó, hoặc bất cứ thứ ô uế nào, 6 thì người ấy sẽ bị ô uế đến chiều tối và không được ăn lễ vật thánh khi chưa tắm mình trong nước. 7 Khi mặt trời lặn, người ấy được thanh sạch, và sau đó được ăn các lễ vật thánh, là thức ăn của mình. 8 Người ấy không được ăn thịt thú vật chết hay bị thú dữ xé để khỏi bị ô uế. Ta là Đức Giê-hô-va. 9 Vậy, họ phải tuân giữ điều Ta truyền phán, nếu không họ sẽ mắc tội và chết vì đã phỉ báng các lễ vật thánh. Ta là Đức Giê-hô-va, Đấng thánh hóa họ.

10 Không người nào ngoài gia đình thầy tế lễ được ăn các lễ vật thánh. Khách trọ hay người làm thuê trong nhà thầy tế lễ đều không được ăn lễ vật thánh. 11 Nhưng người nô lệ được thầy tế lễ mua về hoặc được sinh ra trong nhà sẽ được phép ăn thức ăn của thầy tế lễ. 12 Nếu con gái của thầy tế lễ lấy chồng không phải là thầy tế lễ thì sẽ không được ăn phần từ lễ vật thánh. 13 Nhưng nếu con gái của thầy tế lễ đã góa chồng hay ly dị mà không có con, nay trở về ở với cha như khi còn trẻ thì nàng sẽ được ăn thức ăn của cha. Không người nào ngoài gia đình thầy tế lễ được phép ăn các lễ vật thánh cả.

14 Nếu người nào vô ý ăn lễ vật thánh thì phải đền lại cho thầy tế lễ vật thánh đã ăn, cộng thêm một phần năm giá trị vật ấy. 15 Thầy tế lễ không được làm ô uế lễ vật thánh mà dân Y-sơ-ra-ên dâng lên Đức Giê-hô-va 16khi để cho người ngoài ăn lễ vật thánh, khiến họ mắc tội và phải đền lễ vật. Ta là Đức Giê-hô-va, Đấng thánh hóa các vật đó.’”

Việc chọn lựa sinh tế

17 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: 18 “Hãy truyền bảo A-rôn, các con trai người và toàn dân Y-sơ-ra-ên rằng: ‘Nếu một người trong nhà Y-sơ-ra-ên hoặc ngoại kiều sống giữa họ đã hứa dâng hay tự nguyện dâng tế lễ thiêu lên Đức Giê-hô-va 19 thì phải dâng một con đực không tì vết bắt từ bầy bò, hoặc chiên con hay dê cái. 20 Các con không được dâng một con vật có tì vết vì sẽ không được đoái nhậm.

21 Khi một người đã hứa dâng hay tự nguyện dâng lên Đức Giê-hô-va một tế lễ bình an bằng bò hay chiên thì phải dâng một con vật không tì vết mới được đoái nhậm. 22 Các con không được dâng cho Đức Giê-hô-va một con vật mù mắt, què chân, bị thương tích, ghẻ chốc hay lở lói. Đừng bao giờ đem những con vật như thế đặt lên bàn thờ làm tế lễ thiêu dâng lên Đức Giê-hô-va. 23 Các con có thể dâng một con bò hay chiên con có chân quá dài hay quá ngắn làm lễ vật tự nguyện, nhưng nếu dâng nó làm lễ vật khấn nguyện thì sẽ không được đoái nhậm.

24 Trong toàn xứ, các con không được dâng lên Đức Giê-hô-va con vật có tinh hoàn bị giập, bị rách hay bị thiến. 25 Các con cũng không chấp nhận một con vật nào như thế từ người nước ngoài để làm thức ăn cho Đức Chúa Trời. Chúng sẽ không được đoái nhậm vì đã bị thương tật và tì vết.’” 26 Đức Giê-hô-va lại phán với Môi-se: 27 “Một bò con, chiên con hay dê con mới sinh ra phải được ở bên mẹ nó bảy ngày. Từ ngày thứ tám trở đi nó có thể được chấp nhận làm tế lễ dùng lửa dâng lên Đức Giê-hô-va. 28 Không được giết cả bò mẹ lẫn bò con, chiên mẹ lẫn chiên con trong cùng một ngày. 29 Khi các con dâng tế lễ tạ ơn lên Đức Giê-hô-va thì phải dâng thế nào để được đoái nhậm. 30 Phải ăn tế lễ trong chính ngày đó, không nên để lại bất cứ thứ gì đến sáng hôm sau. Ta là Đức Giê-hô-va. 31 Vậy các con hãy gìn giữ và làm theo các điều răn của Ta. Ta là Đức Giê-hô-va. 32 Không được xúc phạm đến danh thánh Ta để Ta được tôn thánh giữa con dân Y-sơ-ra-ên. Ta là Đức Giê-hô-va, Đấng thánh hóa các con, 33 là Đấng đã đem các con ra khỏi Ai Cập để làm Đức Chúa Trời của các con. Ta là Đức Giê-hô-va.”

Bình luận

Thờ phượng Chúa

Phân đoạn này nhấn mạnh đến “danh thánh” của Đức Chúa Trời (Lê-vi Ký 22:2). Trong chương 22, Đức Chúa Trời phán với dân sự Ngài rằng “Ta là Chúa” đến chín lần (c.2–3,8–9,16,30–33). Tại sao Đức Chúa Trời lại nhấn mạnh danh Ngài nhiều như vậy?

Trong thời cổ đại, tên gọi mang ý nghĩa vô cùng quan trọng. Người ta tin rằng tên có thể tiết lộ điều gì đó đặc biệt về một người. Danh xưng của Đức Chúa Trời cũng không ngoại lệ. Danh YHWH bày tỏ sự vĩ đại và độc nhất vô nhị của Ngài.

Danh Ngài cũng nhắc nhở dân Y-sơ-ra-ên về mối quan hệ đặc biệt giữa Đức Chúa Trời và họ. Đây là danh mà Ngài đã bày tỏ cho Môi-se như một dấu hiệu về lời hứa Ngài luôn ở cùng dân sự (Xuất Ê-díp-tô Ký 3).

Mỗi lần Đức Chúa Trời phán “Ta là Chúa”, chúng ta được nhắc nhở về cả sự vĩ đại của Ngài lẫn mối quan hệ của chúng ta với Ngài. Mọi luật lệ trong chương này đều được xây dựng dựa trên những lẽ thật đó và hướng lòng chúng ta về Chúa.

Chủ đề của Lê-vi Ký 21 là sự thánh khiết của Đức Chúa Trời và sự cần thiết của chức tế lễ để dân sự có thể đến gần Ngài. Trong Tân Ước, chúng ta thấy rằng Chúa Giê-su chính là Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm vĩ đại, và qua Ngài, chúng ta được đến gần Đức Chúa Trời.

Chúa Giê-su là:

1. Đấng thánh khiết tuyệt đối Thầy tế lễ thượng phẩm phải thanh sạch theo luật nghi lễ (Lê-vi Ký 21:11b). Nhưng Chúa Giê-su không chỉ sạch về mặt nghi lễ—Ngài hoàn toàn thánh khiết và không hề bị tội lỗi làm vấy bẩn (Hê-bơ-rơ 7:26, MSG).

2. Đấng biệt riêng cho Đức Chúa Trời Thầy tế lễ thượng phẩm phải biệt riêng cho Đức Chúa Trời (Lê-vi Ký 21:12), và Chúa Giê-su chính là Đấng biệt riêng trọn vẹn cho công việc của Cha Ngài (Lu-ca 2:22).

3. Đấng được xức dầu Thầy tế lễ thượng phẩm phải được xức dầu bằng dầu thánh (Lê-vi Ký 21:12) như một biểu tượng của Đức Thánh Linh. Chúa Giê-su đã được Đức Thánh Linh xức dầu khi chịu báp-têm. Ngài chính là Đấng được xức dầu—Đấng Christ.

Nếu chương 21 nhắc chúng ta về sự cần thiết của một thầy tế lễ trọn vẹn, thì chương 22 nhắc chúng ta về sự cần thiết của một sinh tế trọn vẹn. Của lễ dâng lên phải “không có tỳ vết” (Lê-vi Ký 22:19,21). Chúa Giê-su chính là cả Thầy Tế Lễ hoàn hảo và Sinh Tế hoàn hảo.

Hãy suy ngẫm về ba phân đoạn này và lắng nghe lời tuyên xưng đầy quyền năng: “Chúa Giê-su Christ là Chúa” (Phi-líp 2:11), cũng như tình yêu tuyệt vời của Ngài dành cho chúng ta qua sự đóng đinh trên thập tự giá. Và hãy đáp lại bằng sự thờ phượng chân thành:

“Hỡi hết thảy những người trung tín của Đức Giê-hô-va, hãy yêu mến Ngài!” (Thi Thiên 31:23).

Cầu nguyện

Lạy Chúa, con muốn thờ phượng Ngài. Chính Ngài làm cho con nên thánh. Chính Ngài giải cứu con khỏi sự giam cầm. Ngài là Chúa. Con yêu mến Ngài, Chúa ơi!

Pippa chia sẻ

Thi Thiên 31:24

"Hỡi những người trông đợi Đức Giê-hô-va, Hãy vững lòng bền chí!"

Hôm nay tôi cần rất nhiều sự mạnh mẽ. Trên thực tế, hầu hết các ngày! Xin thêm sức cho con, Chúa ơi.

reader

App

Tải xuống ứng dụng Kinh Thánh Trong Một Năm dành cho thiết bị iOS hoặc Android và đọc theo mỗi ngày.

Tham khảo

The One Year® là nhãn hiệu đã đăng ký của Tyndale House Publishers. Được sử dụng bởi sự cho phép.

Trừ khi có quy định khác, các trích dẫn Kinh thánh được lấy từ Kinh thánh, Phiên bản quốc tế mới được Anh hóa, Bản quyền © 1979, 1984, 2011 Biblica, trước đây là Hiệp hội Kinh thánh Quốc tế. Được sử dụng dưới sự cho phép của Hodder & Stoughton Publishers, một công ty của Hachette UK. Đã đăng ký Bản quyền. 'NIV' là nhãn hiệu đã đăng ký của Biblica. Nhãn hiệu Vương quốc Anh số 1448790.

Thánh Kinh được đánh dấu (MSG) lấy từ The Message. Bản quyền © 1993, 1994, 1995, 1996, 2000, 2001, 2002. Được sử dụng dưới sự cho phép của NavPress Publishing Group.

This website stores data such as cookies to enable necessary site functionality and analytics. Find out more